Trung tuần tháng 2 năm 1998, Âu Bằng và Đình Nhi lên máy bay bay về nước. Lúc các cháu còn trên bầu trời Đại Tây Dương, thư báo về ngài Larry đã bay về Trường Chuyên ngữ Thành Đô nhanh hơn chuyến bay của học sinh nhà trường. Đình Nhi vừa về đến nhà, ngay đêm đó, phóng viên các báo đã đến phỏng vấn lấy tin. Ngày hôm sau báo “Thành Đô buổi chiều” ngay trang đầu đã chạy hàng tít lớn đỏ thắm: “Học sinh trung học Thành Dung (tên gọi khác cua Thành Đô) thăm Mỹ và mang vinh dự trở về”, các báo khác cũng đồng thời đua nhau đưa tin. Bất kể là giáo viên, học sinh của Trường hay là người dân bình thường đều cho rằng những biểu hiện xuất sắc của họ ở Hoa Kỳ đã mang lại vẻ vang cho thanh thiếu niên và cho quê hương.

 

Âu Bằng và Đình Nhi cũng rất tích cực phối hợp với các đơn vị hữu quan giải quyết tốt mọi việc, nhưng rất lo lắng. Lần thăm Hoa Kỳ này đã ngốn hết cả tháng trời! Các bạn cao trung ba và cao trung hai đã đi hết một đoạn đường dài trên con đường thi đại học. Họ cần phải cố gắng hết sức nhanh chóng đuổi kịp các bạn.

LARRY HỎI: EM CÓ MUỐN NHẬN THÁCH THỨC

VỀ PHÍA MÌNH KHÔNG?

 

Tháng 6 năm 1998, Đình Nhi đang bận rộn với kỳ thi cao trung thì nhận được bức thư điện tử của ngài Larry, ông dùng lối nói ngắn gọn thường ngày đi thẳng vào sự việc: “Em Đình, báo cho em một tin tốt lành. Tôi được biết Trường Đại học Columbia và Học viện Wellesley đều có học bổng toàn phần dành cho học sinh Trung Quốc, đương nhiên họ chỉ nhận những học sinh Trung Quốc giỏi nhất. Không biết em có muốn nhận thách thức: trực tiếp xin sang Hoa Kỳ học hệ chính quy hay không?”

 

Rõ ràng, Đình Nhi có muốn sang Hoa Kỳ học hay không, ngài Larry còn chưa biết, là vì khi trả lời đường dây nóng của khán giả Đài truyền hình C-SPAN của Hoa Kỳ, chỉ một mình Đình Nhi là học sinh Trung Quốc trả lời là chưa dự định sang Hoa Kỳ học đại học. Trước khi Đình Nhi đi thăm Hoa Kỳ, cả nhà chúng tôi đã trao đổi về vấn đề học đại học của Đình Nhi. Chúng tôi đều nhất trí là, đến giai đoạn nghiên cứu sinh ra nước ngoài mới thích hợp. Câu trả lời của Đình Nhi ở Đài Truyền hình C-SPAN với ý tưởng đó. Vì thế, ngài Larry thấy cần phải thăm dò ý kiến của Đình Nhi trước.

 

Về bức thư của ngài Larry, Đình Nhi vẫn chưa nhắc lại ý kiến ban đầu, còn tò mò thêm: “Theo ông, tôi có mấy phần chắc chắn giành được học bổng toàn phần của một trường nổi tiếng Hoa Kỳ?”

 

Ngài Larry trả lời ngay sau đó: “Sự thành bại của một cuộc tranh đua không phụ thuộc vào bức thư giới thiệu của tôi mà ở chỗ em có rất nhiều ưu thế. Nhưng hai học sinh tôi giới thiệu trước đây, sau khi được nhận vào học đều rất xuất sắc. Do vậy, sự giới thiệu của tôi, về phương diện nhà trường có phần được tín nhiệm. Nhưng đó không phải là chắc chắn tuyệt đối. Loại tranh đua nào cũng có những yếu tố không xác định được rõ ràng”. Tiếp theo Larry phân tích cái lợi cái hại của Đình Nhi khi học đại học ở Trung Quốc và Hoa Kỳ. Ông nhận thức rất rõ ràng, Đình Nhi nếu trực tiếp xin học một trường chính quy ở Hoa Kỳ sẽ có lợi cho sự phát triển trong tương lai. Ngài Larry vốn là một luật sư lâu năm trong nghề, thói quen nghề nghiệp khiến ông không thể bắt buộc Đình Nhi phải chấp nhận những ý kiến đó mà chỉ hy vọng Đình Nhi suy nghĩ nghiêm túc đối với đề nghị của ông.

 

Lúc ấy, Đình Nhi mới 17 tuổi, quyết định thế nào cần phải được sự đồng ý của người bảo lãnh. Do đó, trên góc độ pháp luật, Larry không bỏ qua việc để Đình Nhi hỏi ý kiến ba mẹ.

 

Sau khi biết được nội dung bức thư của ngài Larry, cả ba người chúng tôi hết sức vui mừng. Chúng tôi cảm thấy, thái độ của Larry một lần nữa chứng thực tiềm lực phát triển của Đình Nhi. Tiếp theo, chúng tôi điềm tĩnh lại. Đi sang Hoa Kỳ học, xét cho cùng có quan hệ tới sự thành bại của cả một đời người, không so sánh lợi hại tỉ mỉ, không thể khinh suất quyết định. Huống hồ, nó liên quan tới rất nhiều vấn đề. Một khi đã quyết định xuất ngoại du học, tất cả cuộc sống hiện nay của Đình Nhi cần phải điều chỉnh sắp xếp lại. Việc này hết sức khó khăn giống như trường hợp một chiếc xe phóng như bay sẽ phải rẽ ngoặt gấp sang một hướng khác.

 

Lại còn những điều kiện để làm đơn xin học đại học ở Hoa Kỳ. Việc đầu tiên phải vượt qua, là thi TOEFL.

 

Ngoài yêu cầu thành tích ưu tú về các mặt khác ra, Larry cũng rất chú trọng đến thành tích thi TOEFL. Ông đề xuất vớu Đình Nhi thành tích phải đạt 640 điểm, vì muốn được học bổng của một trường đại học nổi tiếng, cần phải đạt đến số điểm như thế. Đó quả là một yêu cầu rất cao. Nếu thi TOEFL không tốt hoặc không đạt những yêu cầu khác của Trường Columbia và Học viện Wellesley thì phải làm như thế nào. Larry cũng không quên nói thêm về cách suy nghĩ của ông, nếu không được trường đại học hàng đầu thu nhận vào học thì cũng không coi là không đến học ở Hoa Kỳ.

 

Ngài Larry rất quý trọng nhân tài, tính vô tư đó cũng giống như Lôi Phong, tấm lòng tha thiết và kiên trì giúp đỡ hết lòng cũng không kém gì Bá Nhạc của Trung Quốc. Có điều, Larry cũng giống như rất nhiều người Mỹ khác, làm việc thường coi trọng hiệu suất và thành quả. Ông là người đã đến tuổi “tri thiên mệnh”, nên cần nắm vững thời gian để làm một số việc có giá trị cho đời. Nếu Đình Nhi không thể chứng minh được là “thiên lý mã”, Larry cũng đành lấy làm tiếc mà gạch tên Đình Nhi trong bản danh sách của mình.

 

Do vào dịp này trước đây, Đình Nhi và chúng tôi đều cho đi học nước ngoài là việc sau khi đã học đại học chính quy, thậm chí Đình Nhi ngoài việc bố trí học tiếng Anh ở trường, từ trước tới nay chưa chuẩn bị được gì cho thi TOEFL, bây giờ nước đến chân mới nhảy, rất dễ bị thất bại.

 

Gần bước tới thềm năm thứ ba cao trung, thời gian quý như vàng, vội vàng xông vào cuộc chiến với thi TOEFL, làm sao có thể thi đạt thành tích tốt?

 

Kiến nghị của Larry là một cơ hội và cũng là một thử thách không đạt tiêu chuẩn thì cũng không thể đạt được gì hết.

LỰA CHỌN KHÓ KHĂN:

CÓ SANG HOA KỲ HỌC ĐẠI HỌC HAY KHÔNG?

 

Vấn đề làm đơn xin học đại học ở Hoa Kỳ, Đình Nhi và chúng tôi đã có một thời gian do dự không quyết định được. Nguyên nhân chính là vì thời gian quá eo hẹp. Đình Nhi sắp vào lớp cao trung năm thứ ba. Học năm thứ ba cao trung ở Trường Chuyên ngữ Thành Đô, theo lối nói của những học sinh đã tốt nghiệp là thực hiện “lễ rửa tội cho một đời người”. Tất cả những học sinh tốt nghiệp cao trung trước đây do đã trải qua một năm vật lộn gian khổ làm cho họ có thể tự hào tuyên bố, từ nay không có một khó khăn nào của đời người mà họ không thể vượt qua. Sự học tập căng thẳng của cao trung ba vì thế được xem như là một chấm hoa đậm sắc của thời cao trung không thể nào quên.

 

Chế độ học tập và nghỉ ngơi của nhà trường rất chặt chẽ và liên tục, yêu cầu mỗi học sinh từ 6 giờ 30 phút sáng đều đến thao trường rèn luyện buổi sáng. Tiếp ngay sau đó, nhiệm vụ học tập khẩn trương mỗi ngày như cỗ xe lăn đường chạy mải miết. Ngoài ít phút nghỉ ngơi sau bữa cơm trưa và chiều ra, học sinh học một mạch đến 10 giờ 30 phút đêm.

 

Sau khi kết thúc buổi tối, học sinh còn tự giác làm “cuốc xe đêm”. Mười một năm gian khổ học tập, sắp đến trận chiến đấu cuối cùng, ai cũng đều giúp nhau cố lên hơn nữa, bạn xem thêm sách đến 12 giờ, tôi làm bài tập đến 1 giờ sáng rồi mới chịu đi nghỉ.

 

Cứ như thế, thiếu ngủ đã trở thành vấn đề phổ biến, Đình Nhi lúc học đến năm thứ ba cao trung, nếu cộng thêm cả thời gian ngủ gật lúc buổi trưa, bình quân mỗi ngày ngủ được 6 tiếng thì cũng là khá lắm rồi. Nếu Đình Nhi làm đơn xin học ở Hoa Kỳ, lập tức phải đồng thời tác chiến trên hai mặt trận. Nhiệm vụ của nhà trường, một chữ cũng không thể thiếu, như vậy có nghĩa là, mỗi ngày 6 giờ 15 dậy, 12 giờ đêm ngủ. Mặt khác cần phải điền thêm các biểu mẫu xin học đại học Hoa Kỳ, xếp đống lại cũng đến cả thước, và cũng không thể thiếu một chữ. Như thế đến mấy giờ mới được đi ngủ?

 

Ngài Larry chỉ giới thiệu Đình Nhi xin vào học ở trường đại học nổi tiếng nhưng những trường đại học nổi tiếng hiện nay cũng trong tình trạng cung không đủ cầu. Đối thủ cạnh tranh là những học sinh trung học ưu tú đã sẵn sàng từ lâu ở Hoa Kỳ. Trong thời gian thăm đất nước này, Đình Nhi đã tận mắt thấy học sinh Hoa Kỳ chuẩn bị tham gia kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông như thế nào. Do các trường trung học ở Hoa Kỳ khi học xong môn nào liền kiểm tra kết thúc môn học đó luôn, không giống như ở Trung Quốc tập trung bài trong 6 năm, đến giai đoạn cuối cùng mới thi tốt nghiệp. Từ lớp 11 (tương đương với năm thứ hai cao trung), học sinh trung học Hoa Kỳ đã rất thoải mái. Họ chỉ cần tham gia cuộc thi “tư chất học sinh” (SAT I) gồm hai môn tiếng Anh và Toán học là có đủ điều kiện thi vào đại học.

 

Cuộc đua tranh giữa Đình Nhi và học sinh Hoa Kỳ như cuộc chạy đua giữa một vận động viên vừa chạy vừa giơ quả tạ với một vận động viên gọn nhẹ chạy cự ly ngắn, mới nhìn đã thấy bất lợi chứ chưa nói đến thành công.

 

Cho nên thi đại học ở trong nước là không thể bỏ qua. Và như thế, không thể không đối mặt với cục diện “trước sau đều bị địch đánh”, đó là một điều tối kỵ của các nhà quân sự từ trước đến nay, làm đơn xin học đại học ở Hoa Kỳ hay không trở thành khó khăn lớn nhất trước mắt Đình Nhi. Nhưng bây giờ Đình Nhi đã già dặn hơn trước rất nhiều, cháu biết phương pháp để tìm ra quyết định đúng đắn nhất. Trong thời kỳ sơ trung, chúng tôi thường giảng giải nhiều lần cho Đình Nhi: Lúc đứng trước sự lựa chọn quan trọng, cần phải “tập trung suy nghĩ, tranh thủ ý kiến rộng rãi của mọi người”. Cháu luôn luôn ghi nhớ phương pháp này. Gặp việc quan trọng cháu thường hay tổ chức họp gia đình để cho mỗi người đều phát biểu ý kiến của mình. Đợi để khi mọi sự lợi hại đều được xem xét kỹ, cháu mới quyết định cuối cùng. Sử dụng biện pháp này, cháu không chỉ một lần tháo gỡ được sự việc tưởng chừng như bó tay, giải quyết một cách ngon lành mọi ý kiến được tham khảo.

 

Chúng tôi đã nhiều lần họp gia đình, tuy không nhanh chóng đạt được quyết định nhưng luồng suy nghĩ cũng dần rõ ràng hơn.

 

Do nguồn tài lực của gia đình chỉ có thể xin được học bổng toàn phần một trường đại học nổi tiếng, nếu nửa học bổng cũng khó thực hiện được việc đi học vì học phí còn lại đối với gia đình chúng tôi cũng không thể gánh nổi. Năm 1998, học phí ở Trường Harvard là 21.342 đô-la, cộng thêm tiền phòng ở, mua sách, bảo hiểm sức khoẻ, phụ phí hàng ngày, tất cả lên tới 31.250 đô-la. Số tiền này còn chưa tính đến khoản sinh hoạt phí 3 tháng hè. Các trường đại học khác đại khái cũng thế. Trường Đại học Columbia năm nay thu khoảng 33.296 đô-la, còn hơn cả Harvard, Trường Princeton thu 33.040 đô-la, Trường Cornell thấp hơn một ít cũng phải nộp 31.952 đô-la. Bất kỳ trường nào, hàng năm cũng đều thu 1/4 học phí làm cho đại bộ phận người Trung Quốc sống bằng lương khó thực hiện việc đi du học nước ngoài được.

 

Chúng tôi đều không muốn Đình Nhi đến Hoa Kỳ làm thuê, kiếm học phí, đối mặt với áp lực sinh tồn nặng nề, bị kẹp giữa hai tình trạng sức khoẻ suy yếu và học tập căng thẳng, làm sao còn đủ sức để nắm vững được tri thức nữa. Đặc biệt còn cần phải đảm bảo an toàn trước mọi tai hoạ ẩn tàng.

 

Huống chi Đình Nhi rất coi trọng việc học đại học trong nước, thi đậu một trường đại học tốt, học hết đại học chính quy cũng rất đáng giá. Phong cách dạy và học chắc chắn của các trường đại học trong nước cũng có thể tạo cho Đình Nhi một nền tảng vững vàng suốt đời. Để tránh tình trạng xôi hỏng bỏng không, thi đại học trong nước là không thể bỏ.

 

Qua nhiều lần thảo luận dần hình thành ý thống nhất là: trong điều kiện hiện có, một mặt cần phải có chừng mực khêu dậy tiềm năng của Đình Nhi, dùng một phút chia thành mấy phút để sử dụng, mặt khác ba mẹ phải cố làm thật tốt nhiệm vụ “hậu cần”.

 

Nếu thời gian không kịp thì làm thế nào? Có thể phải giảm nhẹ mục tiêu thi trong nước, bỏ yêu cầu vào học Trường Bắc Đại, lúc cần sẽ chuẩn bị thi vào trường đại học bình thường. Đó thực sự là một quyết định buồn với Đình Nhi, mỗi khi nghĩ đến phải bỏ cơ hội học Trường Bắc Đại, cháu buồn đến rơi nước mắt.

 

Mục đích của những giá phải trả đó, tức là đột phá vào trường đại học hạng nhất thế giới, một mục đích hầu như không thể với tới được. Cho dù thất bại, cũng là một đời không hề ân hận.

DĨNH - NGƯỜI CON GÁI TRUNG HOA Ở MỘT TRƯỜNG NỔI TIẾNG HOA KỲ

 

Cuối tháng 6, ngài Larry gửi đến một thư điện tử, báo cho Đình Nhi một tin mới: Dĩnh, một học sinh năm thứ hai Học viện Wellesley sẽ về Thành Đô thực tập hè. Larry hy vọng Dĩnh có thể giúp Đình Nhi về ngôn ngữ và các mặt khác. Không lâu sau, Đình Nhi nhận được điện thoại của một cô gái, phát âm tiếng phổ thông rất chuẩn. Đó chính là cô Dĩnh vừa từ Hoa Kỳ đến Thành Đô và rất muốn gặp Đình Nhi.

 

Chúng tôi nói với Đình Nhi mời Dĩnh đến nhà chơi, hy vọng cô gái xa bố mẹ này có thể cảm thấy ấm áp như ở nhà.

 

Mấy hôm sau, vào một buổi cuối tuần Dĩnh đến. Tuổi lớn hơn Đình Nhi một ít, người hơi cao, nét mặt thanh tú, gợi cho ta cảm giác đó là một cô gái dịu dàng trong sáng. Dĩnh từ lớp 5 tiểu học đã theo bố mẹ di cư sang Hoa Kỳ, sau đó nhập quốc tịch Hoa Kỳ. Dù lấy tiêu chuẩn Trung Quốc hay tiêu chuẩn Hoa Kỳ, Dĩnh cũng là một cô gái xuất chúng. Cô đến Hoa Kỳ lúc 11 tuổi, trong thời gian 9 năm ngắn ngủi, từ “tiếng Anh ABC” rất nhanh chóng bỏ xa tuyệt đại đa số trẻ em Hoa Kỳ, dù mỗi lần chiêu sinh chỉ lấy 500 học sinh. Nếu không nói tiếng Anh, chỉ nhìn bề ngoài không ai cho là Dĩnh lớn lên ở Hoa Kỳ. Cô ngồi, mỉm cười như cô bé ngoan hàng xóm sang chơi. Không ít người Trung Quốc sau khi đi ra nước ngoài vì lâu ngày không nói tiếng Trung Quốc, không chỉ giọng nói thay đổi mà khi nói thường xuất hiện hiện tượng hụt hơi, không phát âm được. Nhưng Dĩnh trái lại, nói tiếng phổ thông rất lưu loát, tự nhiên. Cô nói với chúng tôi là ở Hoa Kỳ thường xem báo chí Trung Quốc nên Trung văn còn nhớ rất tốt.

 

Có thể thấy được bố mẹ Dĩnh dù đã di cư sang Hoa Kỳ nhưng vẫn hoài niệm về quê hương, hơn nữa còn rất sáng suốt khi Dĩnh đã tiếp nhận nền văn hoá Hoa Kỳ, nhưng vẫn giữ được tình yêu với văn hoá Trung Hoa. Trên thực tế, những đứa trẻ đã quen thuộc đồng thời hai ngôn ngữ và văn hoá so với một số em người Hoa “còn Mỹ hơn cả người My”, càng có đất phát triển tốt hơn nhiều.

 

Theo thói quen nghề nghiệp, tôi rất hứng thú quan sát thấy Dĩnh có ánh mắt không giống với trẻ em gái bình thường của Trung Quốc.

 

Phần lớn trẻ em gái Trung Quốc lúc nói chuyện với người khác, đặc biệt với người mới quen, rất ít có thói quen nhìn thẳng không chớp mắt vào người đang tiếp chuyện, những Dĩnh khi nói chuyện thường chăm chú nhìn thẳng vào người đối thoại, không đảo ánh mắt. Đó là thói quen thường thấy ở người phương Tây, hơn nữa ánh mắt ấy vừa thẳng thắn lại vừa chân thành, gây cho người đối thoại hiểu được nhau.

 

Dĩnh và Đình Nhi mới gặp mà như đã quen biết từ lâu, nhanh chóng trở thành bạn. Cứ đến cuối tuần, Đình Nhi từ trường trở về nhà đều gọi điện thoại cho Dĩnh hẹn thời gian, mời đến nhà chơi. Có lúc Dĩnh cũng gọi điện thoại đến, hỏi rất thẳng thắn: “Tôi đến nhà bạn, có được không?”

TRƯỜNG IVY LEAGUE VÀ HỌC VIỆN MINICOLLEGES

 

Dĩnh giới thiệu với Đình Nhi một loạt các trường đại học ở Hoa Kỳ, là các trường thuộc loại nhất. Xem điều kiện của các trường danh tiếng ấy, cảm tưởng mỗi ngôi trường đều làm thót tim.

 

Sau khi Dĩnh gần gũi, tìm hiểu thực lực của Đình Nhi thấy Đình Nhi có năng lực tiếp xúc với các trường đại học đó.

 

Trên đại để, các trường đại học Dĩnh giới thiệu có thể chia thành hai loại: một loại là trường Ivy League nổi tiếng, Harvard đứng đầu, loại thứ hai là một loạt các trường, học viện khoa học tự nhiên và nhân văn nổi tiếng, ở Hoa Kỳ gọi là “Supper Minicolleges” (Các trường đại học mi ni siêu cấp).

 

Ivy League của Hoa Kỳ gọi là nhóm các trường nổi tiếng về học thuật uy tín và có tiếng rất sớm ở miền Đông Bắc Hoa Kỳ, gồm có 8 trường: Đại học Harvard, Đại học Columbia, Đại học Yale, Đại học Princeton, Đại học Pennsylvania, Học viện Dartmouth, Đại học Cornell, Đại học Brown. Trong các trường này có rất nhiều trường cổ xưa, được xây dựng từ thời Hoa Kỳ còn là thuộc địa của Anh quốc, trên những bức tường gạch đỏ, cây thường xuân (tiếng Anh là Ivy) leo bò dày đặc vì thế “Ivy” trở thành biệt hiệu của những trường đó.

 

Trên bảng xếp hạng các trường đại học Hoa Kỳ tất cả 8 trường đại học này vẫn luôn luôn được xếp vào loại trường đại học ngôi sao hàng đầu.

 

Học viện Literal Arts College là học viện chỉ có hai môn khoa học nhân văn và tự nhiên, còn người Mỹ dùng từ Supper Minicolleges để chỉ một số trường, học viện về khoa học nhân văn và khoa học tự nhiên có quy mô nhỏ, rất nổi tiếng và có lịch sử lâu đời ở vùng Đông Bắc Hoa Kỳ như Học viện Wellesley, Học viện Almount Reseater.

 

Mini – có nghĩa là rất nhỏ, trong đó Học viện Mount Holyoke chỉ có 2.054 người, tất cả đều là nữ sinh. Học viện Wellesley  có 2.300 học sinh, đều là nữ sinh. Học viện Almount Reseater gồm cả nam và nữ sinh viên, quy mô nhỏ hơn, chỉ có 1.600 sinh viên.

 

Supper – siêu cấp, là chỉ thứ bậc tương đối cao. Dù quy mô không lớn lắm, cũng không lập viện nghiên cứu sinh, nhưng do trong thời gian một, hai trăm năm họ đã xây dựng được tiếng tăm về học thuật lững lẫy, lực lượng giáo sư hùng hậu, sự nghiệp giảng dạy của họ đã đào tạo những nhân vật được ngưỡng mộ về học thuật, nhận được giải thưởng Nobel. Sinh viên của các trường này, sau khi tốt nghiệp đa số đều thi vào hệ nghiên cứu sinh, hoặc tìm được những việc làm rất tốt. Vì thế từ trước tới nay, họ là mục tiêu cạnh tranh của những học sinh giỏi nhất Hoa Kỳ.

 

Dĩnh đề nghị Đình Nhi xin thi vào mấy trường loại Supperminicolleges. Trong các trường đại học Dĩnh giới thiệu cho Đình Nhi, đầu tiên là Học viện Wellesley, nơi cô đang theo học. Trường này từ trước tới nay được người dân Hoa Kỳ công nhận là tốt nhất, là Học viện nữ sinh mang màu sắc quý tộc. Phu nhân tổng thống Kennedy, bà Jackie Kennedy cũng tốt nghiệp trường này. Năm đó bà Tống Mỹ Linh vợ Tưởng Giới Thạch do yêu cầu tranh thủ ngoại viện rộng rãi trong các tầng lớp xã hội Hoa Kỳ cho cuộc chiến tranh kháng Nhật ở Trung Quốc đã có liên quan rất nhiều đến việc bà đã tốt nghiệp và được sự giáo dục ở Học viện này. Học viện Wellesley, đã đào tạo rất nhiều người nổi tiếng, gần đây là vị nữ Quốc vụ khanh đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ, bà Albright.

 

Ngoài nổi tiếng như vậy, trường này còn có nhiều điểm hấp dẫn khác: nhà trường đối với học sinh học nghề thực hiện yêu cầu về tiêu chuẩn rất khắt khe, làm cho các học sinh nói chung đều đạt được trình độ tương đối cao. Kế hoạch giao lưu học thuật của trường làm cho học sinh có cơ hội được vào học các trường đại học tốt nhất Hoa Kỳ để thu thập được những chỗ mạnh hoặc thành công của người khác. Trong các trường đại học giao lưu với Học viện Wellesley, có cả trường đại học Thanh Hoa của Hoa Kỳ MIT – đó là Học viện cơ giới, khoa học tự nhiên và khoa học xây dựng.

 

Vấn đề này đối với một người chưa thoả mãn với môn văn học nói chung như Đình Nhi, có sức hấp dẫn rất lớn. Đình Nhi hy vọng trong quá trình tìm tòi học hỏi của mình có được một trình độ nhất định về khoa học xây dựng. Học viện William Mounts là một trong những học viện nổi tiếng lâu đời nhất của Hoa Kỳ. Giáo sư của trường, tỷ lệ nhận học vị tiến sĩ đều cao hơn các trường đại học nổi tiếng khác như Harvard, Yale, Princeton và là một trong các trường nhất nhì về nhân văn và khoa học tự nhiên của Hoa Kỳ. Tỷ lệ giáo sư và học sinh của trường này là 1/10 làm cho sinh viên ngoài giờ lên lớp cũng có lượng thời gian lớn được thảo luận các vấn đề học thuật với các giáo sư. Trong sinh viên của trường, có tới 1/3 số sinh viên được ra nước ngoài hoặc đến một nơi khác thực hiện kế hoạch nghiên cứu tự mình lựa chọn, cơ hội cho sinh viên mở mang tầm nhìn, có thể nói “nếu muốn là thực hiện được”.

 

Học viện Dartmouth là một trường đại học cấp “ngôi sao” giỏi nhất Hoa Kỳ, được xếp hạng thứ 8. Tiếng tăm về học thuật của trường được liệt vào “cấp 5 sao” cao nhất. Ông Hiệu trưởng cũ của trường này đã xây dựng cho nhà trường truyền thống phóng tầm nhìn ra thế giới. Đối với việc bồi dưỡng nhân tài, tạo điều kiện cho họ được bay nhảy trên vũ đài quốc tế là rất có lợi. Với tư tưởng chủ đạo đó, rất nhiều môn học của trường đều có cơ hội ra nước ngoài nghiên cứu. Học triết học có thể sang Edinburgh của Scotland, kịch nghệ có thể sang London nước Anh, học sinh vật đến Trung Mỹ và quốc đảo Caribê, nghiên cứu Á châu đến Trung Hoa và Nhật Bản. Làm như vậy việc tìm hiểu thế giới được hoà lẫn vào trong quá trình học tập.

 

Trường Đại học Columbia cũng là mục tiêu chủ yếu mà Larry kiến nghị học. Trong rất nhiều trường đại học hùng mạnh của Hoa Kỳ, tiếng tăm về học thuật và xếp hạng của trường, đều đạt bậc cao nhất. Trong các hiệu trưởng của trường đã xuất hiện Tổng thống Dwight D. Eisenhower. Trong số giáo sư và học sinh tốt nghiệp của trường, số người được nhận giải Nobel xếp hàng đầu trong các trường đại học Hoa Kỳ, hơn 56 người. Do địa vị ưu việt của nó nên yêu cầu nguồn học sinh lấy vào rất cao, đối với học sinh nước ngoài, chỉ riêng điểm thi TOEFL thấp nhất cũng phải đạt 600 điểm trở lên, còn nếu muốn có học bổng, yêu cầu cao đối với các môn càng không thể tưởng tượng được.

 

… Nhưng  trong các trường đại học đó, không có trường nào hấp dẫn đối với Đình Nhi hơn được Đại học Harvard.

SỨC HẤP DẪN MẠNH MẼ CỦA HARVARD

 

 

Tờ tuần báo “Thời đại” của Hoa Kỳ từng lấy đề tài “Nâng cao 25 đôi tay của Hoa Kỳ” nhằm bình chọn ra 25 người Mỹ có ảnh hưởng mạnh nhất đương đại. Trong số những người được chọn gồm giáo sư, nhà khoa học, lãnh tụ tôn giáo, chính trị gia, chủ doanh nghiệp, ngôi sao điện ảnh thì các giáo sư và các cựu sinh viên Harvard chiếm 7 người, hơn 1/4 tổng số.

 

Nguồn tài nguyên giáo dục của Harvard được trời hậu đãi. Giáo sư và các cựu sinh viên của trường là một tập thể được giải thưởng Nobel có tỷ lệ cao nhất thế giới.

 

Trên tuyến đầu các lĩnh vực học thuật, trong các phòng thí nghiệm thăm dò thế giới huyền bí của tự nhiên, trên diễn đàn chính trị đầy uy lực, trong đông đảo các nhà công nghiệp kỹ thuật cao, ngành đầu tư ngân hàng… Rất nhiều cựu sinh viên Harvard với sức sống và trí tuệ dồi dào đã làm cho những lĩnh vực mà họ hoạt động tràn đầy sức sống, luôn phát triển.

 

Có cơ hội được học ở Harvard thực là một vinh dự đặc biệt, một dịp may hiếm có. Đình Nhi nếu muốn đạt được dịp may đó, điều kiện tối thiểu nhất là phải tốn rất nhiều thời gian và tâm huyết  vào công việc chuẩn bị, là vì Đình Nhi sẽ bước vào một trận đấu “quyết liệt” với những đối thủ đều là học sinh tốt nghiệp cao trung thuộc loại giỏi các nơi trên thế giới và cả ở Hoa Kỳ. Lúc ấy, cái mà Đình Nhi thiếu nhiều nhất, chính là thời gian.

 

Báo thi vào Trường đại học Harvard hay không, Đình Nhi đang do dự. Nhưng Dĩnh nói: “Nếu không xin vào Harvard, sau này sẽ hối hận”. Thế là Đình Nhi liền ghi Trường Harvard vào danh sách. Larry được biết Đình Nhi đã đem phạm vi xin thi từ hai trường mở rộng thành bốn trường mà còn bao gồm cả Harvard nữa, liền tỏ thái độ đồng tình ủng hộ. Ý tưởng đột phá vào các trường hạng nhất thế giới đã biến kiến nghị của Larry thành kế hoạch của bản thân Đình Nhi.

 

Đây là mục tiêu làm người ta kinh ngạc, cũng là một gánh nặng vô song.

THAM KHẢO VÀ DỰ TÍNH

 

Để tranh thủ thời gian, Đình Nhi phát đi một loạt thư điện tử, lập một danh sách xin vào học, sau đó bắt đầu trưng cầu ý kiến của chúng tôi đối với danh sách sơ bộ để rồi quy hoạch lại thành một danh sách thoả đáng hơn, tiếp theo dùng thư quốc tế giá tương đối cao xin biểu mẫu và đơn xin nhập học.

 

Ba mẹ thấy thế nào? - Đình Nhi chỉ vào bảng danh sách hỏi.

Còn con? - mẹ Đình Nhi hỏi lại – Con thích trường nào trong bảng này?

Bất kỳ trường nào! - Đình Nhi trả lời như trước đây, - Được một trường trong bảng này nhận vào học, con cũng thoả mãn lắm rồi.

 

Thật thế, có thể được bất kỳ một trường nào nhận vào học đều đủ làm cho người ta tự hào.

 

Tôi xem lại bảng danh sách đến mấy lần, thử lượng sức của cháu là bao nhiêu. Xin vào một trường đại học nào đều liên quan đến tiền đồ đại sự cả một đời Đình Nhi, cần có một sự tính toán rất chuẩn xác. Bất luận là đánh giá quá cao hay quá bảo thủ đều có thể mang đến những tổn thất thực sự.

 

Như vậy, Đình Nhi có chắc chắn được số trường này nhận vào hay không? Căn cứ vào kinh nghiệm mấy năm lại đây, đối với vấn đề này tôi tin cần nắm vững quy luật thì sẽ có cách đưa ra những phán đoán chuẩn xác để giải quyết sự việc đó. Cổ nhân thường nói: “Vận trù ư duy ốc chi trung, quyết thắng ư thiên lý chi ngoại” (đến như chiến tranh là một việc hết sức phức tạp, cũng đều có thể phán đoán trước được thắng bại).

 

Trước mắt tôi như đang xem một bộ phim dài, từng sự việc của 10 năm về trước cứ hiện lên dần. Tôi đánh giá lại tỉ mỉ những biểu hiện của Đình Nhi trong nội khoá và ngoại khoá, hãy còn những việc không thể hiện trên bảng thành tích, nhưng đó chính là những tố chất tốt đẹp không thể thiếu được của người thành công, trong lòng dần dần thấy vững tin. Tôi nhận thấy lời nhận xét của Dĩnh đối với Đình Nhi là rất đáng tin cậy. Đình Nhi hoàn toàn có thể căn cứ vào danh sách các trường đại học này của Dĩnh để “quyết đấu”.

 

Sự việc sau này chứng tỏ, trong bảng danh sách các trường đại học đã sàng lọc trên, sự xác định từng vị trí của Đình Nhi là tương đối chuẩn xác. 11 trường đại học mà Đình Nhi báo dự thi, đại bộ phận (khoảng 70%) hoặc là có thể nhận Đình Nhi vào học hoặc là nhận Đình Nhi vào danh sách thí sinh dự bị. Có thể nói, đó là một thành tích phi thường.

CĂN CỨ THI TOEFL Ở ĐÂU?

 

Một khi sự việc đã được quyết định, Đình Nhi nói là làm ngay. Khó khăn phải đối mặt đầu tiên là cuộc thi TOEFL. Kế hoạch của Đình Nhi là, khi bắt đầu nghỉ hè lập tức bắt tay vào chuẩn bị. Nhiệm vụ của tôi là giúp Đình Nhi ghi tên dự thi.

 

Chiều ngày 2 tháng 7 tôi về sớm đến Trường Đại học Tứ Xuyên, nơi có trung tâm thi của Tứ Xuyên thuộc tổ chức phối hợp thi nước ngoài của Trung Quốc đóng ở đây. Đến dự thi TOEFL gồm có các thí sinh dự thi theo tiêu chuẩn nước ngoài GRE (graduate Record Examination – Thi thành tích nghiên cứu sinh), không chỉ có Tứ Xuyên còn có Vân Nam, Quý Châu và vùng Tây Bắc.

 

Ngày hôm đó, tôi rất thoải mái, không vội vàng, chờ đến 4 giờ chiều mới vào địa điểm ghi tên. Trước hết xem thời gian thi TOEFL gần kề nhất, thi ngày 8 tháng 8, nhất định là không kịp. Lần thi thứ hai? Còn sớm, phải đợi đến ngày 24 tháng 10. Hãy còn phải xem thời gian hết hạn ghi tên. Tôi giật mình, ngày 2 tháng 7 hết hạn mà hôm nay đã là 2 tháng 7, chỉ còn một giờ nữa là hết.

 

Đúng là quỷ thần xui khiến.

 

Thời gian TOEFL lần sau là 3 tháng nữa: ngày 16 tháng 1 năm sau. Nếu đợi đến thời điểm đó, thành tích phải đợi đến tháng 3 năm 1999 mới gửi đến, như vậy đã quá thời hạn của đại đa số trường đại học Hoa Kỳ cho phép, hậu quả là lỡ hẳn một năm học, còn một việc khác lớn hơn là Đình Nhi buộc phải vứt bỏ toàn bộ kế hoạch sang Hoa Kỳ học đại học chính quy.

 

Đây là lần nguy hiểm thứ nhất trong quá trình xin du học nước ngoài của Đình Nhi. Khi hồi tưởng lại, nó nhắc nhở chúng tôi, việc nhỏ cũng không thể xem thường.

 

Ghi tên xong, tôi bỗng chợt nghĩ: Đình Nhi thi TOEFL như thế nào đây?

 

Nếu có đủ thời gian, Đình Nhi nhất định đạt được điểm cao vì tiềm năng ngôn ngữ là mục tiêu từ thời còn nhỏ chúng tôi đã chú ý bồi dưỡng cho Đình Nhi. Năng lực ngoại ngữ của Đình Nhi rõ ràng vượt trội hơn người khác, học rất nhẹ nhàng, đây không phải là ngẫu nhiên mà đó là kết quả bồi dưỡng từ lúc hãy còn thơ ấu. Tập quán song ngữ xây dựng từ thời trẻ thơ, có thể đồng thời thúc đẩy sự phát triển năng lực và tiềm lực ngôn ngữ, đó là một sự thực không còn nghi ngờ gì nữa. Đình Nhi tiếp thu loại rèn luyện này, về phương diện ngôn ngữ rất nhạy bén, dù cho trước khi học sơ trung chưa chính thức học tiếng Anh nhưng khi vào trường Chuyên ngữ đều dễ dàng trở thành “xuất sắc” và theo yêu cầu của chúng tôi nhanh chóng làm được: “Tiếng Anh trội nhất, khẩu ngữ lưu loát, tự nhiên”.

 

Ngoài ra, chúng tôi còn tìm hiểu trình độ giảng dạy của Trường Chuyên ngữ Thành Đô. Học sinh trường này nắm từ vựng so với trung học nhiều hơn gấp 10 lần, trên nền tảng ấy, nhà trường còn rất coi trọng rèn luyện năng lực nghe và nói. Ngay từ buổi lên lớp Tiếng Anh đầu tiên của năm thứ nhất sơ trung, thầy cô giáo yêu cầu học sinh hình thành tập quán tư duy bằng tiếng Anh. Qua 6 năm học, đại bộ phận học sinh nói tiếng Anh có thể đạt đến trình độ không cần thời gian suy nghĩ, so sánh với những học sinh trước tiên phải dùng tiếng Hán phiên dịch ra tiếng Anh trong đầu, rõ ràng là tốt hơn rất nhiều. Đình Nhi là học sinh giỏi nhất trong số đó, nên thi TOEFL đạt điểm cao là đương nhiên.

 

Đồng thời với trình độ tiếng Anh của Đình Nhi, được mắt thấy tai nghe nên chúng tôi phán đoán tương đối khách quan.

 

Đầu năm 1998, trong thời gian thăm Hoa Kỳ, Đình Nhi đến thăm Học viện Wellesley nổi tiếng và đã lên lớp nghe giảng ở trường này. Khi tiết Kinh tế học vi mô kết thúc, thầy giáo người Mỹ thấy một học sinh Trung Quốc nghe giảng rất chăm chú, liền đến bên Đình Nhi hỏi:

Chào em. Bài tôi giảng em nghe có hiểu không?

Vâng, em hiểu được. - Đình Nhi trả lời, sau đó bình tĩnh dùng tiếng Anh nói lại một cách hoàn chỉnh những nội dung quan trọng mà thầy đã giảng trên lớp. Thầy giáo người Mỹ quá kinh ngạc, không ngớt lời khen ngợi.

 

Lúc tham quan Toà án tối cao Hoa Kỳ ở Washington, Đình Nhi đã từng thảo luận với thẩm phán cao cấp Kennedy về một vụ án dân quyền đang gây tranh luận ở Toà án này. Ấn tượng sâu sắc để lại cho người Mỹ tại buổi gặp, không chỉ là tư duy sắc sảo và rõ ràng mà còn bao gồm cả khẩu ngữ tiếng Anh rất chặt chẽ, không hề có một sai sót nào của Đình Nhi. Sau này, ngài Larry nhiều lần nhắc lại.

 

Ngoài ra, khoảng một tháng trước khi Larry đề xuất cháu đến Hoa Kỳ học đại học, chúng tôi vừa tiếp xúc với một giáo viên môn tôn giáo học của Trường Landtane và là bạn thân của chúng tôi- Iry Johnson. Bà nói tiếng Anh miền Đông Hoa Kỳ rất chuẩn. Tôi ngồi bên cạnh quan sát bà Iry và Đình Nhi nói chuyện, thỉnh thoảng lại đùa vui, thấy Đình Nhi nói chuyện về những vấn đề rất đời thường, khẩu ngữ tiếng Anh khá trôi chảy. Trình độ nói tiếng Anh lưu loát giống như cháu nói tiếng Hán vậy.

 

Dù đã có một nền tảng rất vững, nhưng khi xem tờ giấy yêu cầu lượng từ tiếng Anh đến tháng 10 của chương trình TOEFL cũng có phần lo ngại. Thời gian gấp rút và lượng từ vựng theo yêu cầu của chương trình thi TOEFL còn một khoảng cách khá xa. Muốn thi tốt TOEFL, lượng từ vựng phải đạt 8.000 đến 10.000 từ, trong khi đó lượng từ vựng của Đình Nhi đến tháng 7 mới có được 5.000. Trong 2, 3 tháng phải bổ sung thêm 5.000 từ nữa, lại phải sử dụng thành thạo với độ cực khó.

 

Đình Nhi hỏi chúng tôi: “Ba mẹ thấy con có thể thi được 600 điểm không?” Nghe khẩu khí có vẻ chưa thật tự tin, cháu mới 17 tuổi, một gánh nặng quá sức của cháu.

 

Tiếng cười của mẹ phá tan bầu không khí đó: “Bây giờ tạm thời chưa biết. Nếu đạt được 600 điểm, chúng ta sẽ đến tiệm ăn một bữa thật ngon chúc mừng con”.

NGHÊNH CHIẾN TOEFL, GIAN KHỔ VÀ MAY MẮN

 

Trong kỳ nghỉ hè năm thứ hai cao trung, thống nhất sắp xếp ở lại trường, học bù nửa tháng. Để tranh thủ thời gian, tôi đến Cửa hàng sách ngoại văn mua cho Đình Nhi một quyển sách mở rộng lượng từ vựng để Đình Nhi đọc trước.

 

Trung tuần tháng 7, Đình Nhi nghỉ hè, tự đến Cửa hàng Sách ngoại văn mua mấy loại giáo trình, băng TOEFL tốt nhất mà cháu đã nhìn thấy, tranh thủ từng giây phút để học. Cháu dùng thời gian 15 ngày để mở rộng từ đơn, đến Trung tâm Du học nước ngoài của Trường đại học Tứ Xuyên tham gia buổi thi thử TOEFL  - lúc ghi tên lần trước, tôi cũng ghi luôn tên cho Đình Nhi học lớp phụ đạo thi TOEFL. Phương pháp của lớp này chỉ có một cách là dùng đề thi TOEFL mấy lần trước để thi thử. Đó là một lớp phụ đạo mà chúng tôi rất cần.

 

Lần thi thử thứ nhất kết thúc, Đình Nhi ngăn tôi lại hỏi:

Ba đoán điểm của con đi?

570.- Tôi cố ý nói thấp đi một chút.

A! Sai rồi. 613 điểm cơ!

 

Tiếp đó Đình Nhi đưa cho tôi tờ giấy báo điểm, lòng tôi dâng lên một niềm vui khó tả. Lúc này khả năng đi học của Đình Nhi tôi bắt đầu có phần nào tin tưởng.

 

Lần thi thử này Đình Nhi còn thú vị phát hiện ra mình còn một “vũ khí bí mật” nữa - đối với những từ còn chưa nắm vững, cháu có thể căn cứ vào ngữ cảnh câu văn, mười phần cũng đoán được tám chín. Đó là do thu hoạch được từ lần thăm Hoa Kỳ về.

 

Trong thời gian thăm Hoa Kỳ, hàng ngày Đình Nhi đều ham mê sử dụng tiếng Anh theo kiểu Mỹ. Cháu là “người có chí”, dù đi tham quan, phỏng vấn rất khẩn trương, vẫn luôn chú ý nâng cao năng lực nói tiếng Anh - Mỹ của mình. Chỉ một tháng ngắn ngủi, cháu không chỉ quen thuộc với giọng Anh - Mỹ mà còn học được rất nhiều phương thức biểu đạt đặc hữu tiếng Anh - Mỹ, vô tình rất có lợi cho cuộc thi TOEFL.

 

Cuộc thi lần thứ hai, Đình Nhi được 620 điểm, hai lần tiếp theo đều được 630 điểm (điểm tối đa là 677 điểm). Từ đây đến ngày thi TOEFL còn không đến 20 ngày. Kết quả này càng làm cho Đình Nhi tăng thêm lòng tự tin.

 

Tôi đã phân tích tỉ mỉ số điểm Đình Nhi đạt được trong các lần thi thử TOEFL này, tôi phát hiện cháu mạnh nhất là phần thứ nhất: bài nghe hiểu, sai rất ít. Phần thứ hai là kết cấu biểu đạt bằng văn bản. Số điểm của phần này chiếm hơn một nửa số điểm của toàn bộ bài thi TOEFL. Đình Nhi mất điểm phần lớn là ở đây. Nhưng nói chung, mất điểm là không đáng kể. Nếu chú trọng đột phá vào những tri thức có liên quan, có thể tiến tới giảm nhẹ được việc mất điểm. Phần thi thứ ba - đọc hiểu và phân tích là chỗ mạnh nhất của Đình Nhi. Nhưng Lý Hưởng, người sắp tốt nghiệp Bắc Đại nói với Đình Nhi, điểm thi chính thức nói chung thông thường thấp hơn thi thử khoảng 10 – 30 điểm. Đình Nhi muốn đạt 640 điểm như ngài Larry mong muốn, cần phải cố gắng hơn nữa. Vấn đề đầu tiên Đình Nhi phát hiện là giáo trình TOEFL hiện Đình Nhi có trong tay, kém tính thực dụng, giảng từ, ngữ pháp nhiều, nhưng đối với vấn đề “thực tế” trong TOEFL thì còn giảng rất ít. Thực chất của việc học ngoại ngữ trong thực tiễn cần coi trọng mặt lý luận, TOEFL lại càng phải như vậy. Dùng những giáo tài này chuẩn bị thi TOEFL sao có được hiệu quả.

 

Làm thế nào đây? Đình Nhi suy nghĩ thấy cần phải thay tài liệu mới, nhưng ở đâu có loại giáo tài này, có lẽ phải cầu cứu học sinh giỏi Lý Hưởng ở Bắc Đại. Lý Hưởng nói, ở Bắc Kinh có thể mua được tài liệu tốt về TOEFL, rất nhiều học sinh Bắc Đại đều sử dụng loại tài liệu này. Mẹ liền điện thoại đi Bắc Kinh nhờ một người bạn thân – Lý Tô Phần giúp cho việc này.

 

Bà Lý mau nhanh chóng mua được các loại giáo tài cần thiết, hoả tốc gửi ngay cho. Trong lúc chờ đợi tài liệu mới, Đình Nhi tranh thủ từng phút dùng tài liệu cũ mở rộng lượng từ vựng. Hơn một tuần sau, tài liệu TOEFL cùng với 20 đĩa kèm theo đã gửi về.

 

Lúc này, như được chắp cánh, Đình Nhi đẩy nhanh tiến độ học tập. Sau khi lớp cao trung năm thứ ba khai giảng, Đình Nhi muốn xin nghỉ hai tháng để tự học tiếng Anh, mẹ cháu gặp lãnh đạo nhà trường mấy lần nhưng chưa được phê chuẩn. Ý kiến của nhà trường chủ yếu là sợ “xôi hỏng bỏng không” và cũng không muốn mất đi một “hạt giống trạng nguyên”, vốn nằm trong kế hoạch đột phá vào Bắc Đại, nhưng ban giám hiệu cuối cùng cũng đã chấp thuận, một tuần lễ trước khi thi còn cho phép Đình Nhi không phải lên lớp.

 

Giáo viên chủ nhiệm lớp Trương Huệ Cầm trong thời kỳ này đặc biệt ủng hộ Đình Nhi: cho phép cháu mỗi tối tự học lên phòng nghỉ giáo viên chuẩn bị thi TOEFL, cô còn nhờ các thầy giáo khác giup đỡ kinh nghiệm quý báu cho cháu. Đình Nhi nắm vững tất cả thời gian có thể được, dù chỉ 5, hay 3 phút cũng cầm tài liệu thi TOEFL lên xem, đeo tai nghe một đoạn. Tự học ban đêm là một khoảng thời gian đáng quý. Đình Nhi ngồi bên bàn làm việc của cô giáo Trương, tranh thủ để học để luyện và thành tích tốt nhất khi tự mình làm bài thi thử: cuối cùng đạt 670 điểm.

MỌI VIỆC CẦN BẢO HIỂM, LẤY MƯỜI THẮNG MỘT

 

Chẳng bao lâu đã tới hạ tuần tháng 10. Căn cứ vào thực lực của mình, Đình Nhi có thể tham chiến được rồi. 

 

Trước khi thi, tôi đưa chau đi xem phòng thi. Thí sinh tham gia kỳ thi này lên tới năm sáu ngàn người, ngồi đầy Hội trường lớn Trường Đại học Tứ xuyên. Đại đa số đều đã tốt nghiệp chính quy hoặc tuổi đã lớn, Đình Nhi dường như là người ít tuổi nhất trong số đó, nên rất được chú ý. Bên cạnh chúng tôi là một nghiên cứu sinh Trường Đại học Tứ Xuyên, mày râu nhẵn nhụi, có vẻ lão luyện. Anh ta phát hiện Đình Nhi là lớp “hậu sinh”, tò mò nói chuyện với cháu một lúc, rồi quay sang hỏi tôi: “Con gai bác bé thế này đi ra nước ngoài, bác có yên tâm không?” Tôi vừa cười vừa gật đầu: “Em cũng cố gắng được, cần phải thích ứng mà!”

 

Ngày đi thi, mẹ cùng với Đình Nhi đến Trung tâm thi TOEFL, cốt tránh cho cháu gặp sự cố trên đường để đến nới thi được thuận lợi. Gia đình chúng tôi có thói quen các việc quan trọng đều phải có thêm “bảo hiểm”.

 

Nhưng hôm thi kết thúc, tin tức Đình Nhi mang về không được tốt lắm. Cháu ấm ức bĩu môi nói: “Xúi quẩy quá. Trình tự kỳ thi này khác xa với kỳ thi thử. Báo hại con, mấy đề mở đầu làm không tốt. Lúc làm phần thứ hai, tư tưởng chuẩn bị một chút cũng không có”.

 

Nhiều năm nay, sau khi thi xong một môn Đình Nhi vẫn hay phàn nàn, mình làm không tốt, đề này làm không lý tưởng, đề kia có thể làm sai. Chúng tôi đều hiểu, đây là biểu hiện làm việc gì cũng muốn hoàn mỹ của Đình Nhi. Phần lớn các trường hợp trên khi đã có kết quả vẫn luôn đạt tốt. Vì thế lần này chúng tôi cũng quen với lối nói đó.

 

Nhưng chúng tôi cũng không dám chủ quan. Lần này vốn là một cuộc thi quan trọng, thi không tốt thì toàn bộ kế hoạch sẽ bị phá sản. Chúng tôi thà tin rằng, kỳ thi TOEFL này không tốt chứ không thể lạc quan mù quáng, xây dựng kế hoạch trên cát.

 

Thành tích của kỳ thi TOEFL lần này sớm nhất cũng phải đến tháng 12 mới có thể thông qua điện thoại vượt đại dương gửi đến. Lần thi TOEFL tiếp theo là sau hơn hai tháng nhưng thời hạn ghi tên chỉ sau 4 ngày nữa. Nếu thật sự lần này thi không tốt thì phải quyết định ngay có cần phải thi một lần nữa hay không.

 

Con định thế nào? – tôi hỏi

Tháng Giêng thi lại lần nữa đi, ba ạ! – Đình Nhi do dự trả lời.

 

Tôi biết cháu do dự là vì sao rồi, phí ghi tên thi TOEFL mỗi lần là 665 nhân dân tệ. Đình Nhi là người con ngoan, cháu muốn thi lại lần nữa nhưng lại không muốn ba mẹ vì mình mà tốn tiền vào những việc không cần thiết.

 

Được, ba sẽ đi ghi tên dự thi cho con. – Tôi cười đồng ý. Dù cho mẹ nói rằng không cần thiết nhưng vẫn ủng hộ Đình Nhi, chuẩn bị kỹ “lấy mười thắng một”.

 

Những ngày chờ đợi thành tích thi TOEFL, Lưu Diệc Đình đã phải trải qua hai tháng rất bận rộn, gian khổ nhất từ trước tới nay. Mỗi ngày sau khi hoàn thành tất cả nhiệm vụ bắt buộc của nhà trường, những giây phút ngắn ngủi còn lại giữa giờ học, sau khi ăn cơm, đêm khuya sau hiệu lệnh đi ngủ… Tất cả đều tập trung cho việc xin du học.

 

Rất nhiều loại biểu mẫu, từng bài Essay (làm văn, tuỳ bút). Bài này cần 5.000 chữ, bài kia cần 300 chữ, các loại yêu cầu thay đổi bất thường. Từng câu từng chữ đều suy đi nghĩ lại, cân nhắc đạt đến chuẩn mực mới thôi. Ví như: “Giá thử bạn viết một tự truyện dài 300 trang, xin giao nộp trang 277”; “Giá thử bạn làm một nhân viên tuyển sinh cần đòi hỏi một vấn đề gì đó, bạn hỏi vấn đề gì? Tự trả lời, số chữ không hạn chế”; “Bạn đối với triển vọng cuộc sống năm thứ nhất đại học. Làm thế nào để nhà trường biết đến sự tồn tại của bạn?”; “Thảo luận về một vấn đề, một địa phương, trong nước và nước ngoài mà theo bạn là quan trọng và đáng quan tâm…”

 

Nhà trường hy vọng thông qua việc nêu lên rất nhiều loại vấn đề để đạt được mục đích là dùng các loại phương thức về thành tích, số điểm, tư liệu khách quan khác để tìm hiểu được bạn. Vào những ngày đó thường đến 3,4 giờ sáng Đình Nhi mới đi ngủ, có lúc mệt quá nước mắt nhỏ trên máy tính, nhưng đến sáng mẹ vừa gọi dậy, cháu liền dậy ngay để đến lớp tự học. Cứ như thế, cháu cắn răng chịu đựng, không chỉ hoàn thành kế hoạch xin du học mà còn đạt thành tích tối ưu trong học tập, khi thi hết lớp cao trung và trong kỳ thi đại học vẫn xếp hàng đầu. Điều vui mừng hơn nữa là, thành tích thi TOEFL ở Hoa Kỳ báo về đạt 640 điểm, đủ theo yêu cầu cần thiết. Giúp Đình Nhi kiểm tra lại điểm thi TOEFL là người cậu họ đang là nghiên cứu sinh ở Hoa Kỳ. Trung tâm phục vụ thi cử về giáo dục EST thuộc cơ quan tổ chức thi TOEFL mở một đường dây điện thoại chuyên về kiểm tra và trả lời thông tin về vấn đề này.

 

Qua điện thoại đường dài quốc tế mất 10 đô-la, có thể biết được kết quả sớm. Gần đến lúc trả lời qua điện thoại, người cậu họ liền nối với EST vừa hỏi, điện thoại đã vang lên 640 điểm làm Đình Nhi vui mừng khôn tả.

 

Hơn nửa tháng sau, tôi đến Trung tâm thi của Trường đại học Tứ Xuyên nhận thông báo thành tích thi TOEFL của Đình Nhi, nhân tiện hỏi luôn một thầy giáo của trung tâm: “Lần thi này của trung tâm có bao nhiêu người đạt số điểm 640?” – “Rất ít, chỉ một hay hai phần trăm là cùng” - thầy giáo trả lời.

 

Trong một tập thể đông học sinh tốt nghiệp chính quy và nghiên cứu sinh, Đình Nhi thi đạt thành tích như thế này thật là tuyệt vời.

 

Thầy giáo còn tò mò hỏi thêm: “Thế con bé của bác được bao nhiêu điểm?” – “640” – Tôi cười to đầy tự hào trả lời thầy.

 

Đại cục đã được định đoạt! 

 

MỘT QUYẾT ĐỊNH RẤT ĐÁNG MỪNG

 

Theo thứ tự điền vào biểu mẫu của Đình Nhi, Trường Đại học Harvard vốn xếp sau cùng là vì biểu mẫu của Harvard rất nhiều. Họ yêu cầu và kiến nghị thí sinh cung cấp tài liệu đều vượt qua tất cả các trường khác. Các trường khác đặc biệt lưu ý: “không nên gửi cả bó giấy chứng nhận được thưởng”, “không gửi băng ghi âm, băng ghi hình”… Harvard, trái lại tiếp nhận tất cả các loại có thể chứng minh được năng lực của thí sinh. 

 

Lúc ấy, đối với các trường trong mục tiêu đã chọn, công việc làm đơn bắt đầu hết sức bận rộn. Tốc độ vận chuyển của Đình Nhi đã từ xe chở hàng biến thành xe đua. Chỉ tính chuyện chạy thật nhanh chứ không thể dừng lại để xem phương hướng nữa. Thời gian hết hạn nộp biểu mẫu của Đại học Harvard khó có hy vọng điền kịp. Mẹ cháu vô cùng lo lắng hỏi  Đình Nhi:

Có phải con quyết định không học Đại học Harvard nữa phải không?

Nếu con ghi tên vào Harvard, rất có khả năng con không được nhận vào học. Nhưng nếu con không ghi tên vào Harvard con sẽ ân hận suốt đời! - Đình Nhi nói.

Đã đành như thế, nhưng tại sao con không điền vào biểu mẫu?

Mẹ xem con còn có thời gian nào đâu! Đình Nhi ấm ức,- Mỗi tuần chỉ có tối thứ bảy về nhà con mới được dùng máy tính, dù không tắm không ngủ cũng không thể điền hết chừng ấy biểu mẫu! – Nói xong cháu vội vã đi ngay.

 

“Đúng thế!”, bây giờ quyết định thành bại không phải là sự quyết tâm mà là vấn đề thời gian. Xem ra, ba mẹ chỉ lo làm mọi việc sinh hoạt nhỏ nhất cho Đình Nhi, cũng không thể lo đủ, mà phải nghĩ ra một biện pháp khác giúp cháu chạy đến đích.

 

Nếu Đình Nhi có thể mỗi tối trở về nhà dùng được máy tính trong vòng mấy giờ, sáng sớm hôm sau lại đến trường kịp buổi tự học sáng, có lẽ sẽ giải quyết được vấn đề chăng? Nhà lại cách trường khá xa, dù đi xe đạp hoặc xe buýt, cũng phải mất hơn một giờ. Hơn nữa sau buổi tự học ban đêm của Đình Nhi, cũng không còn xe buýt nữa. Trong lúc mệt mỏi như thế, đi xe đạp về không an toàn. Mẹ đã nghĩ ra một phương án rất hay. Mỗi ngày mẹ dùng taxi đưa đón cháu, như thế hàng ngày Đình Nhi có thêm 4 giờ làm việc hữu hiệu, lại rất an toàn. Nghe nói vậy, cháu vui mừng reo lên: “Mẹ là một thiên tài!”

 

Mẹ nói: “Vậy con phải ghi tên vào Harvard!”

 

Đình Nhi cảm thấy cách làm của chúng tôi rất có lý, liền gật đầu đồng ý. Trước một quyết định trọng đại, dù không phải cháu tự quyết định nhưng cháu rất nhạy bén nắm lấy phương án đó và đã thực thi rất hoàn hảo. Đến như ngài Larry thường khen phán đoán của Đình Nhi vô cùng nhạy cảm và chuẩn xác. 

 

Cứ như thế, các biểu mẫu khai của Harvard được hoàn thành rất sớm. Đối với Đình Nhi, xin vào Harvard thực sự là một quyết định vô cùng hạnh phúc.

“VŨ KHÍ BÍ MẬT” CỦA BA MẸ

 

Vì sao trong hoàn cảnh khó khăn muôn bề, chúng tôi vẫn quyết tâm tạo cho Đình Nhi vượt qua mọi hiểm nguy. Hơn nữa còn ủng hộ Đình Nhi sớm sử dụng tiền học chính quy trong nước của gia đình cho, để dùng vào việc khai thác các hạng mục xin du học ở Hoa Kỳ?

 

Nguyên nhân quan trọng thứ nhất là chúng tôi rất hiểu Đình Nhi có một năng lực chịu đựng về tâm lý trội hơn người bình thường và có một thể chất rất bền bỉ. Đây là một tố chất rất quan trọng mà từ thời học tiểu học, chúng tôi đã chú ý bồi dưỡng cho cháu. Tuy nhiên, lúc ấy Đình Nhi hãy còn chưa đánh giá được giá trị quan trọng của tố chất đó.

 

Hồi đó, chúng tôi dự kiến đến một ngày, cháu sẽ phải đứng trước một thử thách đối với năng lực chịu đựng tối đa. Thế là chúng tôi đã dạy dỗ sớm cháu bài học – rèn luyện sức chịu đựng tối đa. Nhảy dây, ném tuyết, chạy bộ, bơi cự ly dài. Một lần lại một lần nữa, sự sắp xếp cứ đều đặn bình thường như thế, tạo cho cháu qua sự tôi luyện về sức chịu đựng tối đa của cơ thể và tâm lý. Và rồi, trong dòng chảy vô tình của thời gian, dù về mặt thể lực hay tâm lý, Đình Nhi dần dần có được sức chịu đựng rất bền bỉ, dẻo dai.

 

Nguyên nhân thứ hai cũng quan trọng không kém là năng lực bảo đảm cần có để Đình Nhi vượt qua khó khăn giành thắng lợi. Trong quá trình Đình Nhi xin học đại học ở Hoa Kỳ, chúng tôi hết sức chú trọng chế định ra một loạt biện pháp khoa học đảm bảo hậu cần và cũng có tác dụng giúp đỡ rất quan trọng. Nếu không, có lẽ cháu chỉ có thể chịu đựng một hai tháng rồi sẽ xì hơi, phải từ bỏ công việc và ước mơ.

 

Có thể trong thời gian hai tháng, thường xuyên mỗi ngày cháu chỉ ngủ 3, 4 giờ, mà vẫn có thể hoàn thành được việc học tập với hiệu suất cao. Các trình tự rất phức tạp của việc xin học ở Hoa Kỳ đã thành công. Rất nhiều người quen biết nghe điều này, đều kinh ngạc.

 

Nếu ngủ không đầy đủ thực là một khó khăn rất lớn.

 

Nhưng chúng tôi rất tự tin khi thực hiện một loạt biện pháp khoa học hữu hiệu có thể giúp Đình Nhi từ một trạng thái mệt nhọc cực độ sẽ dịu đi một cách tương đối đều. Dù mỗi ngày chỉ ngủ 3, 4 giờ, liên tục trong 2, 3 tháng, vẫn đảm bảo hoạt động đều.

 

Những biện pháp này nghe có vẻ giản đơn nhưng hiệu quả rất rõ ràng.

 

Biện pháp thứ nhất là kiên trì luyện thể dục, dù vất vả mệt nhọc đến đâu, mỗi ngày yêu cầu Đình Nhi đảm bảo một số lượng vận động nhất định. Là vì khi học tập căng thẳng, sức ép chịu đựng lớn nhất không phải là cơ bắp mà là đại não. Nếu muốn làm cho đại não giảm mệt nhọc thì cần phải thông qua hoạt động thể dục nhằm làm giảm sự căng thẳng của tế bào não, thay đổi niềm hưng phấn trong đại não. Đại não của con người là một thiết bị tự động hoá đặc biệt. Lúc mệt mỏi quá độ, gần đến giới hạn chịu đựng, liền tự động chuyển sang trạng thái tự bảo vệ, giống như máy lạnh lúc phụ tải quá nóng sẽ tự động tắt máy. Trình tự này của đại não được gọi là ức chế bảo vệ. Đến giai đoạn này, đại não tự động từ chối làm nhiều, thế là nảy sinh sự ngáp dài liên tục, hiệu suất công việc thấp, mơ màng buồn ngủ, chính là để bảo vệ mình không bị tổn thương.

 

Đình Nhi tiếp thu lý thuyết đó của chúng tôi, dù giai đoạn căng thẳng nào cũng hàng ngày tập chạy đều, giữa giờ học lên xuống các cầu thang hoặc tập đứng lên ngồi xuống. Kết hợp giữa động và tĩnh, làm cho đại não trong trạng thái thay đổi hưng phấn tránh được hiện tượng “đứt giây cót”.

 

Dinh dưỡng cũng là một biện pháp hữu hiệu, nếu ta so sánh đại não như một chiếc xe hơi, vật chất dinh dưỡng là nhiên liệu cho máy chạy phát điện. Về mặt này trong nhiều năm chúng tôi đã tìm tòi nhiều quy luật dần trở nên quen thuộc, dễ dàng chế biến cho phù hợp. Về ăn uống đã luyện thành thói quen tốt, thực hiện nhu cầu ăn uống theo khoa học dinh dưỡng. Bắt đầu từ lớp một, lớp hai tiểu học, trong thức ăn trẻ em khác có thể dùng các loại thức ăn ngon theo khẩu vị, ăn theo đủ kiểu, Đình Nhi đã có thói quen hỏi: “Bữa ăn hôm nay có những abumin nào?”

 

Trong quá trình làm đơn xin du học, chúng tôi cố gắng thực hiện một thực đơn rất bổ dưỡng cho đại não, gồm nhiều chất anbumin và vitamin dễ tiêu hoá, ngoài ra tất cả các loại hoa quả đều rửa sạch, tiêu độc, cầm lên là ăn được ngay, vừa giảm bơt thời gian vẫn an toàn. Loại thức ăn này làm cho đầu óc của Đình Nhi luôn tỉnh táo, hoạt động lanh lợi.

 

Một biện pháp khác mà trước đã đề cập tức là “dùng tiền mua thời gian”. Trước đây, vốn là bồi dưỡng cho Đình Nhi năng lực tự lập, đi học hoặc trở về đều đi xe buýt, mỗi lần từ túi to đến túi nhỏ đến quần áo thực phẩm đều tự cháu tìm cách mang theo. Bây giờ, mỗi buổi tối hàng ngày, mẹ đều đến phòng thường trực đợi Đình Nhi hết buổi học để cùng đi xe taxi về nhà. Đình Nhi vừa lên xe liền dựa vào vai mẹ ngủ gật, mỗi lần có thể ngủ được 15 phút, tiết kiệm được 45 phút trên đường đi.

 

Nhưng mẹ cháu là một người có bản lĩnh, không hề vì Đình Nhi mệt mỏi mà làm dao động lòng quyết tâm của mình. Tục ngữ có nói: “Từ bất chưởng binh”. Lúc trẻ đang cần phải xung phong lâm trận, chỉ cần không làm cho “giây cót”bị đứt, chúng ta không bao giờ để lý trí phục tùng sự yếu mềm và thương cảm của nội tâm.

 

Do nhiều năm hun đúc tinh thần đó, Đình Nhi đã bồi dưỡng được tính cách mạnh mẽ, không bao giờ khuất phục trước bất kỳ một khó khăn nào.

 

Ngoài ra, trong những năm đó chúng tôi còn tìm được thực phẩm dưỡng sinh, hồi phục sức khỏe rất công hiệu. Thông qua thực nghiệm nhiều lần của bản thân mình, nghe nói các đệ tử của Mã Tuấn Nhân, bao lần sáng tạo những thành tích tuyệt vời về chạy đường dài, - một nhân tố quan trọng là Mã Tuấn Nhân đã tìm được phương thuốc hay “canh ba ba” (biệt thang) có tác dụng hồi phục mệt mỏi nhanh. Chúng tôi phát hiện đúng là có một số thực phẩm giảm nhẹ rõ rệt sự mệt nhọc của đại não, khiến cho họ chịu đựng được sự hao phí về thể lực và trí lực mà người thường không chịu đựng nổi.

 

Điều này làm cho Đình Nhi trong quá trình làm đơn xin du học thêm mạnh mẽ gấp bội.

PHỎNG VẤN TRỰC TIẾP, CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC

 

Trên các biểu mẫu của Đại học Harvard có một mục đề tự chọn: “Có muốn được phỏng vấn trực tiếp hay không?”. Đình Nhi không do dự đánh một dấu đồng ý trên ô đó. Cháu rất muốn có cơ hội gặp trực tiếp đại diện của Trường Harvard. Cháu tin người phỏng vấn trực tiếp của Harvard có đôi mắt tinh đời.

 

Rất nhiều trường đại học, trong danh sách chỉ nam chiêu sinh đều nhấn mạnh nhiều lần: “Kiến nghị phỏng vấn trực tiếp và thăm nhà trường”, “Rất mong được phỏng vấn trực tiếp và thăm nhà trường”, “Rất mong được phỏng vấn trực tiếp”. Đối với nhân viên chiêu sinh có kinh nghiệm, có lúc chỉ 30 phút phỏng vấn ngắn ngủi so với mười mấy trang tài liệu còn có thể thuyết minh thuyết phục hơn.

 

Người phỏng vấn trực tiếp (Interviewer) là người trực tiếp nói chuyện với người có đơn xin học trong cuộc phỏng vấn, cũng là người có kết luận trực tiếp về một con người cụ thể nào đó muốn xin học, đang ngồi trước mặt kia. Họ là tai và mắt của Hội đồng chiêu sinh, đối với việc có được nhận hay không, họ có ảnh hưởng không thể coi nhẹ. Cho nên lúc này làm đơn xin du học, có cơ hội được phỏng vấn trực tiếp, bạn nên hết sức thận trọng.

 

Phỏng vấn trực tiếp người làm đơn xin học, nói chung là người như thế nào? Nếu người làm đơn trực tiếp thăm trường đại học, người phỏng vấn trực tiếp đương nhiên là quan chức của Văn phòng Chiêu sinh trường này. Như vậy trong nhiều trường hợp, địa điểm phỏng vấn không tổ chức trong khuôn viên nhà trường, thậm chí không ở trên đất Hoa Kỳ. Nếu người xin học ở các nơi tương đối tập trung, các trường đại học Hoa Kỳ còn có thể gửi mấy thầy giáo đến hỏi một vòng, còn nếu người xin học ở trên khắp toàn cầu, nhà trường trực tiếp cử giáo viên đến phỏng vấn là rất khó khăn. Thế là, nhiều trường đại học Hoa Kỳ hình thành một truyền thống – dùng học sinh tốt nghiệp của trường đó làm người phỏng vấn. Những tốt nghiệp sinh đó vừa nắm vững yêu cầu chiêu sinh của nhà trường vừa có tình cảm sâu sắc với “trường mẹ”, thực là những người được chọn rất thích hợp. Khách quan, công bằng là tiền đề thứ nhất không thể thiếu.

 

Trung tâm Chiêu sinh năm 1998 của Trường Đại học Harvard đã công bố họ tên, điện thoại, hộp thư điện tử của hơn 80 người phỏng vấn trực tiếp của hơn 30 quốc gia nằm ngoài Hoa Kỳ và nói rõ chỉ có thể sau ngày 15 tháng 9 năm nay mới có thể bắt đầu liên hệ với nhân dân được phỏng vấn trực tiếp. Các địa điểm họ phân bố gồm có quần đảo Bahamas, Sao Paulo và Costa Rica, nhưng đông nhất vẫn là các nước phát triển phương Tây, chỉ riêng ở Đức đã có 11 người xin được phỏng vấn trực tiếp của Đại học Harvard, nhiều hơn so với số người được phỏng vấn trực tiếp ở Châu Phi và Châu Á gộp lại. Việc này trên thực tế cũng phản ánh số lượng và tỷ lệ chiêu sinh của Trường Harvard trong các nước không giống nhau.

 

Phỏng vấn trực tiếp cuối cùng là phỏng vấn những gì? Rất nhiều học sinh Trung Quốc có cơ hội được phỏng vấn trực tiếp rất lấy làm hứng thú. Nói chung, là hoàn toàn giống như một cuộc nói chuyện phiếm tuỳ hứng, không câu nệ hình thức, không hạn chế đề tài. Nhưng lúc này bạn nên chú ý, người phỏng vấn một mặt dùng sắc mặt dịu dàng làm cho bạn giảm căng thẳng, khích lệ bạn nói ra những điều tai nghe mắt thấy và sự từng trải của bản thân, trình bày những suy nghĩ và kiến giải của bạn, thỉnh thoảng uốn nắn câu chuyện khỏi lệch hướng, mặt khác rất chú ý lắng nghe mỗi câu nói của bạn, tìm cách đi sâu tìm hiểu thế giới nội tâm, tiềm lực và năng lực tu dưỡng của bạn… Lúc bạn ra về, anh ta còn phải viết một báo cáo tỉ mỉ kể cho “trường mẹ” về tất cả những gì anh ta quan sát được ở bạn, trong đó bao gồm một kết luận quan trọng: Bạn có thích hợp với trường hay không?

 

Có thể nói, phỏng vấn trực tiếp là một lần “kiểm tra” toàn diện trong không khí nhẹ nhàng và thân thiện.

 

Nói tóm lại, người phụ trách phỏng vấn của các trường đại học nổi tiếng là những người có cảm giác nhạy bén, sắc sảo, nhiều kinh nghiệm, quan sát của họ đối với người xin phỏng vấn không phải là hết sức sâu sắc thì cũng là gần đúng, một chín, một mười. Vì thế ý kiến của họ rất được “trường mẹ” coi trọng.

 

Biểu mẫu yêu cầu phỏng vấn căn cứ vào thời gian đã gửi đến Harvard, nhưng nhìn vào tờ thông báo công bố người phỏng vấn Harvard, cột của Trung Quốc chỉ đánh một ngôi sao. Điều này có nghĩa là Harvard trước mắt chưa xác định được người phỏng vấn ở Trung Quốc. Đình Nhi trước đó cũng đã yêu cầu được phỏng vấn, nhưng đều được trả lời: “Xin lỗi, chưa tìm được người phỏng vấn ở Trung Quốc.”

 

Không biết Harvard có thể tìm được người phỏng vấn ở Trung Quốc hay không?

TÍN HIỆU VƯỢT QUA SƠ TUYỂN 

 

Tất cả mọi việc khác đều đang hoạt động bình thường, thư điện tử gửi đi gửi lại, biểu này biểu khác yêu cầu điền vào rồi gửi đi, đến một ngày nhận được bức thư gửi bằng máy bay của Trường Harvard báo tin, tất cả tài liệu đã được chấp nhận. Nhưng vẫn chưa nói đến việc sắp xếp người phỏng vấn trực tiếp. Điều này làm cho mọi người thấy hơi lo.

 

Một ngày đầu tháng 2, Văn phòng Chiêu sinh của Harvard gửi một bức thư điện tỏ ý băn khoăn thông báo cho Đình Nhi biết, họ không tìm được tốt nghiệp sinh của Harvard ở Thành Đô để làm người phỏng vấn trực tiếp và hỏi Đình Nhi có thể đến Thượng Hải hoặc Bắc Kinh để phỏng vấn trực tiếp được không, còn yêu cầu Đình Nhi bổ sung một bản luận văn để Hội đồng Chiêu sinh tìm hiểu thêm về trình độ học tập của cháu.

 

Bức thư này làm cho chúng tôi vừa lo vừa mừng, phần nào có thể thấy qua sàng lọc sơ bộ Đình Nhi đã gây được ảnh hưởng cho Văn phòng Chiêu sinh Harvard.

 

Chúng tôi lập tức phát lại bức thư cho ngài Larry, phản ứng của ngài còn vui hơn chúng tôi rất nhiều. Ông lập tức hành động, nhờ những người Mỹ quen biết ở Bắc Kinh và Thành Đô giúp Đình Nhi tra tìm tốt nghiệp sinh Harvard đang làm việc ở vùng Tây Nam Trung Quốc. Ông biết chắc là Đình Nhi đang trong tình trạng thiếu thời gian, mong Đình Nhi giảm bớt một số việc khác, chuẩn bị nhiều hơn cho việc thi đại học.

 

Chúng tôi cũng nhờ bạn bè khắp nơi, hy vọng tìm được một tốt nghiệp sinh Harvard làm việc ở vùng tương đối gần thành phố làm người phỏng vấn.

 

Trong lúc chúng tôi sắp có một đầu mối trên điện thoại đường dài, thì ngài Larry gửi đến một thư điện tử báo một tin tức tốt lành, làm phấn khởi mọi người.

 

“Tôi tìm được một tốt nghiệp sinh Harvard…”

 

Vị tốt nghiệp sinh mà ngài Larry tìm được lại ở ngay Thành Đô! Anh ta là Joe (Joesheph Bookbinder) làm công tác về văn hoá báo chí.

 

Joe tốt nghiệp Harvard vào thập kỷ 80. Thái độ ứng xử của Joe giống như những tốt nghiệp sinh Harvard mà chúng tôi đã tưởng tượng là năng động và sôi nổi, đối với nền văn hoá không giống với mình luôn có một thái độ bao dung và thông cảm của người Harvard. Anh yêu mến sự nghiệp của bản thân, tri thức uyên bác, trí tuệ, nhân hậu và thành khẩn. Lúc học ở Harvard đã có hứng thú sâu sắc với lịch sử và nền văn hoá Trung Hoa, xác định là sau này sẽ công tác ở Trung Quốc mà mình yêu thích. Cũng như rất nhiều học sinh Harvard, kế hoạch của anh đã được thực hiện.

 

Tình yêu nồng nàn của anh đối với nền văn hoá Trung Quốc còn biểu hiện trong việc lựa chọn người bạn đời của mình: Tiểu Lương, bạn đời của Joe là một người Mỹ gốc Hoa sinh trưởng ở Hoa Kỳ đầy nữ tính, hiền thục, thông minh, có phong cách dịu dàng nhã nhặn. Con nhỏ của họ, Andrew, cũng đã bắt đầu học cả hai thứ tiếng Hán và Anh.

 

Joe không chỉ yêu nền văn hoá Trung Quốc mà còn đặc biệt yêu thích Tứ Xuyên và Thành Đô. Anh cảm thấy Thành Đô đối với Bắc Kinh, Thượng Hải có màu sắc và những sự vật giàu chất “biển dâu”, thể hiện nội hàm văn hoá lịch sử lâu đời của đất nước Trung Hoa. Lòng yêu mến Tứ Xuyên còn lan sang cả mùi vị đậm đà cay nồng của thức ăn Tứ Xuyên.

 

Ngoài ra, một điểm khác rất quan trọng là Joe tiếp xúc với rất nhiều người Trung Quốc. Chúng tôi rất tin việc này có thể giúp cho Joe trong quá trình so sánh phát hiện ra được điểm mạnh của Đình Nhi. Đồng thời chúng tôi cũng tin vào những tố chất tốt đẹp mà chúng tôi đã bồi dưỡng cả thời gian dài cho Đình Nhi.

 

Có thể phỏng vấn trực tiếp với một đại biểu Trường Harvard như vậy, đương nhiên không thể nào “đẹp” hơn, chỉ còn không biết anh ta có thời gian để phỏng vấn trực tiếp hay không.

 

Larry hỏi ý kiến Joe, anh ta lập tức đồng ý làm người phỏng vấn Đình Nhi. Một việc lớn như thế đã thành công. Tiếp theo, ngài Larry nhanh chóng báo tin cho Văn phòng Chiêu sinh Harvard biết tình hình, địa chỉ thông tin của Joe, Harvard cũng gửi ngay cho Joe tất cả tài liệu cần thiết cho cuộc phỏng vấn. Theo quy định của Harvard, người phỏng vấn chỉ sau khi xem hết các tài liệu theo yêu cầu mới có thể tiến hành phỏng vấn.

 

Trong thời gian này cả nhà đều nóng lòng chờ đợi. Theo sắp xếp của Văn phòng Chiêu sinh Harvard, bình thường các học sinh nước ngoài xin vào Harvard, sớm nhất là ngày 15 tháng 9 năm trước mới có thể cùng với những người phỏng vấn ở khắp nơi trên thế giới quy định ngày tiến hành phỏng vấn. Hiện tại đã gần hạ tuần tháng 2, ngày Hội đồng Chiêu sinh của Harvard bỏ phiếu thoả thuận là vào tháng 3, thời gian đã gần kề, liệu có kịp không?

PHỎNG VẤN TRỰC TIẾP: “CÔNG ĐÁO TỰ NHIÊN THÀNH”

(CÓ CÔNG MÀI SẮT CÓ NGÀY NÊN KIM)

 

Cuối cùng tài liệu đã gửi tới, ngày phỏng vấn cũng đã thống nhất với Joe, ngày 22 tháng 2, là ngày thứ hai, mồng 8 năm mới sau Tết Nguyên Đán.

 

Lúc ấy, chúng tôi đang bận vì cơ quan tập trung vật tư, tháo dỡ nhà cũ, xây phòng ở mới. Sau Tết phải cắt nước, cắt điện, hơn nữa trong dịp tết bưu điện không giải quyết chuyển máy điện thoại, mọi liên lạc của Đình Nhi và e-mail với các trường đại học cũng bị ngừng hoạt động. Vì thế, Đình Nhi phải thức đêm thức hôm để hoàn thành một bản luận văn cuối cùng cho hồ sơ thi lần này và gửi đi trước khi phải ngừng máy điện thoại. Sau đó Đình Nhi phải trở về ngay phòng chúng tôi thuê trọ ở gần nhà trường chuẩn bị bài cho kỳ thi đại học.

 

Lần phỏng vấn này, công việc phải chuẩn bị không nhiều lắm là vì công tác chuẩn bị chúng tôi đã sớm hoàn thành mười mấy năm trước rồi. Phỏng vấn trực tiếp giống như đề bài thi số học có rất nhiều lời giải, không thể dự đoán trước đối phương hỏi cái gì. Nhưng chỉ cần bạn có sự tích luỹ sâu sắc, đối phương quyết không thể không nhìn thấy.

 

Ngày phỏng vấn, mẹ đưa Đình Nhi đến nơi Joe công tác rồi trở về làm các việc chuyển nhà. Trời lạnh giá, bên ngoài lạnh thấu xương, trong phòng rất ấm áp. Cuộc phỏng vấn trực tiếp giữa Joe và Đình Nhi đã tiến hành hai giờ, Joe nói không nhiều lắm, nhưng nghe rất chăm chú. Có lúc anh ta đưa ra một, hai vấn đề hướng cuộc nói chuyện vào chỗ anh ta cảm thấy thú vị nhất, sau đó để cho Đình Nhi thoải mái vào các loại đề tài: ở trường học, các cảm nhận từ trước và gần đây, về suy nghĩ, dự định, cũng không phải né tránh gian khổ và khó khăn đã trải qua… Nói chuyện với Joe trong không khí thân mật khiến cho Đình Nhi nói được tất cả những điều muốn nói.

 

Thời gian trôi đi rất nhanh. Hai giờ trong chớp mắt đã hết.

 

Sau khi kết thúc buổi phỏng vấn trực tiếp, Joe nói mấy ý thay cho suy nghĩ của mình, cũng giống như cách đối xử của anh, thẳng thắn và chân thành: “Tôi tin rằng em sẽ cống hiến nhiều cho Harvard… Hy vọng em sẽ được Harvard nhận vào học”.

 

Lời nói đó chứng tỏ lần phỏng vấn trực tiếp rất thành công. Có thể nói, phỏng vấn trực tiếp đã làm cho Đình Nhi nhích dần đến Harvard.

 

Đình Nhi vội vàng về ngay trường để chuẩn bị thi đại học. Thời gian vào phòng thi chỉ còn lại vừa vặn 4 tháng. Qua tôi rèn trong đợt đột phá vào Harvard, Đình Nhi có một nhận thức mới, cháu cảm thấy có thể kịp để “tiến công dũng mãnh” vào Bắc Đại. Đợi chờ kết quả du học hầu như là độc quyền của ba mẹ.

 

90% người xin du học, thất bại là kết cục không thể tránh khỏi. Dù trước một giây cuối cùng, ai cũng không thể biết ngôi sao may mắn của Hội đồng Chiêu sinh sẽ đậu trên đỉnh đầu những người nào, nhưng chí ít chúng tôi biết rằng Đình Nhi đã hoàn thành rất xuất sắc những điều cần phải làm, không có gì đáng phải hổ thẹn với lòng mình nếu thất bại.

 

 

Hơn một tháng sau, giai đoạn mới trong cuộc đời của Đình Nhi bắt đầu mở rộng. Như lời chúc mừng của ngài Larry đã nói: “Con gái của ông bà sắp tung cánh bay vào bầu trời mới, nghênh đón thách thức mới!”

 

Cánh bay mang theo lời chúc phúc của chúng tôi và cũng mang theo kỳ vọng của chúng tôi.