PHÒNG BỊ PHẢI TỪ XA, VƯỢT QUA BÃI ĐÁ NGẦM

Làm thế nào để Đình Nhi có thể vượt qua được “thời kỳ chống đối” trong thời gian cháu đang học trung học này một cách thuận lợi? Ngay từ khi Đình Nhi còn đang học tiểu học, chúng tôi đã suy nghĩ đến vấn đề này.

Trong quá trình trưởng thành của một đứa trẻ, thời kỳ học trung học, từ trước tới nay luôn được coi là “thời kỳ nguy hiểm” nhất và cũng là thời kỳ mà các bậc cha mẹ luôn đau đầu nhất. Thời kỳ này tập trung vào giai đoạn sơ trung. Nhiều thầy cô giáo cho rằng, học trò giai đoạn này quả thực là những chú “nghé con mới vực”.

Trẻ con trong “thời kỳ chống đối” này thường có tâm lý muốn rời xa cha mẹ. Có lẽ, trong giai đoạn này cha mẹ thường hay kêu ca, bắt bẻ làm chúng luôn cảm thấy không hài lòng, rất muốn tìm thấy những người bạn cùng lứa tuổi để thổ lộ nỗi lòng. Sự bế tắc trong tâm hồn khiến các cháu luôn cảm thấy cô đơn. Hơn nữa những khó khăn trắc trở trong sự trưởng thành cũng khiến các cháu thường bị ức chế và tự ti. Cùng với sự phát triển về thể chất, các cháu còn giống như “kẻ bị đè nén” bắt đầu đấu tranh để “giành quyền độc lập”, đòi cha mẹ phải nới lỏng “vòng tay o ép”, trả lại “tay lái con thuyền đời” của mình. Thế nhưng trên thực tế, còn lâu chúng mới đủ sự khôn ngoan và chín chắn để tự mình xác định được phương hướng cuộc đời mình.

Các nhà tâm lý học và giáo dục học đều nhấn mạnh, các cháu trong thời kỳ học trung học, giống như đang đi qua một bãi đá ngầm cần những tay lái vững vàng đầy kinh nghiệm của cha mẹ. Nếu như để mặc cho con thuyền ấy tự do trôi nổi trong khu vực đá ngầm, rất dễ bị vấp ngã lật thuyền hoặc lạc hướng. Có không ít các cháu đã đi vào con đường lầm lỗi ngay trong giai đoạn tuổi hoa này. Đó là những con thuyền bất hạnh giữa bãi đá ngầm.

Cho dù không xảy ra vấn đề gì lớn lắm, những sự xung đột thường xuyên giữa cha mẹ và con cái, cũng ngày một gay gắt hơn. Những thần tượng về cha mẹ được hình thành ở các cháu ngay từ thời kỳ thơ ấu, đến bây giờ sẽ ngày một bị mờ nhạt đi qua những xung đột hàng ngày, thậm chí đã biến thành “bạo chúa”. Các cháu sẽ rất không hài lòng, thậm chí còn chống đối ra mặt với cách quản thúc của cha mẹ. Và các bậc cha mẹ cũng sẽ thấy rằng phương thức giáo dục bằng trách mắng, ra lệnh đối với các cháu quả thực không còn hiệu nghiệm nữa.

Chúng tôi đã quyết tâm hạn chế đến mức tối thiểu những nhân tố bật lợi trong thời kỳ chống đối này ở Đình Nhi. Vì vậy, chúng tôi đã áp dụng phương pháp “phòng ngừa từ xa” (một vài điểm của phương pháp này ở những chương trước đã có đề cập đến). Sau khi Đình Nhi vào học ở sơ trung, chúng tôi đã tự động điều chỉnh phương thức giáo dục, cố gắng duy trì mối liên hệ thường xuyên và ảnh hưởng của chúng tôi đối với Đình Nhi, nhằm đạt hiệu quả cao trong việc “giáo dục tư tưởng”, giúp cháu sớm hình thành một nhân sinh quan khoa học và cao thượng.

Sự điều chỉnh kịp thời này, đã giúp chúng tôi có được một vài việc thành công.

BẮT ĐẦU TỪ VIỆC THƯỜNG XUYÊN QUAN TÂM ĐẾN NGƯỜI KHÁC,

ĐỂ XÁC LẬP CHÍ HƯỚNG

Sự thành công của mỗi con người, đều có một quy luật chung “Chí hướng là thầy của mọi việc” (Chí vi sự chi soái) có nghĩa là: chí hướng là động lực quan trọng cho mọi sự thành công trong sự nghiệp.

Môi trường sinh sống của những đứa con độc nhất, nhìn chung đều có những nhân tố bất lợi dễ làm các cháu nảy sinh tư tưởng mình là trung tâm của cả gia đình, tư tưởng này rất không có lợi cho việc khổ luyện thành tài. Luôn được quan tâm săn sóc, nhưng chúng tôi luôn phòng ngừa Đình Nhi sẽ trở thành một con người ích kỷ, mong muốn cháu là một con người giàu lòng vị tha, hảo tâm rộng lượng, biết nhìn xa trông rộng. Bởi vì xưa nay những con người làm nên nghiệp lớn đều là những con người có chí hướng rõ ràng, có hoài bão lớn lao. Còn mọi thói xấu như tham lam ti tiện, ích kỷ hại người, tính toán chi li, hẹp hòi thiển cận… đều là kẻ thù của mọi sự thành công.

Cơ sở của việc xác lập chí hướng là gì? Phải bắt đầu từ đâu để xác lập chí hướng cho con? Việc này chúng tôi phải xác định thật sớm cho Đình Nhi, nếu để muộn sẽ hoàn toàn bị động.

Tôi từng thấy, và cũng phải thừa nhận rằng, dã tâm và lòng tham cũng là một động lực thúc đẩy để làm nên sự nghiệp. Thế nhưng động lực đó đã mang trong mình nó quá nhiều, quá nặng “cái tôi”. Vì vậy, nó cũng chỉ là “một chiếc vé xe chay đường gần”, hoặc một chất kích thích đô-ping trong thi đấu thể thao, nó giúp con người ta đến đích thật nhanh, nhưng tàn lụi cũng nhanh. Có nhiều người tiếng tăm lừng lẫy một thời, cũng chỉ vì nguyên nhân ấy mà sự nghiệp và danh tiếng phút chốc tan thành mây khói. Dù thế nào cũng không thể đi theo con đường này được.

Do đó, tôi cho rằng, xác định chí hướng cho Đình Nhi phải bắt đầu dạy cho cháu biết quan tâm đến người khác. Một đứa trẻ một khi đã thực sự quan tâm đến hạnh phúc của người khác, nhất định là biết quan tâm đến những nỗi đau của những người không có liên quan gì đến mình, mới có thể dứt bỏ được “cái tôi” hẹp hòi trong suy nghĩ và hành động, mới có thể phóng tầm mắt ra khỏi vòng luẩn quẩn những lợi ích cá nhân, để nhìn ra cả thế giới xung quanh, xây dựng được vai trò và sứ mệnh của mình trong thế giới đó. Có như vậy mới có đủ dũng khí và nghị lực phi thường để làm nên sự nghiệp.

Ở lứa tuổi nhi đồng, người được Đình Nhi hâm mộ nhất là Andersen, vì ông đã để lại cho tất cả trẻ con trên thế giới biết bao chuyện đồng thoại lý thú và hấp dẫn. Đến tuổi thiếu niên thì Đình Nhi lại hâm mộ những nhà khoa học và bác Lôi Phong bởi vì các nhà khoa học đã làm cho nhân loại không ngừng tiến lên, không ngừng hiện đại hoá nền văn minh, còn bác Lôi Phong cả một đời chỉ biết chăm lo tận tuỵ vì người khác.

Sự chăm lo thời tiểu học và cả trước đó nữa đã đặt cơ sở tư tưởng rất tốt cho Đình Nhi. Nhưng để xác định được chí hướng thật rõ ràng, chỉ ở giai đoạn tiểu học không thể làm xong được, ngay cả giai đoạn sơ trung cũng vẫn chỉ là giai đoạn chuẩn bị mà thôi. Nhưng tôi vẫn hy vọng, giai đoạn sơ trung sẽ la giai đoạn khởi động để Đình Nhi suy nghĩ và xác lập được chí hướng của mình.

Cha mẹ luôn có ý thức suy nghĩ về điều đó, còn Đình Nhi cũng suy nghĩ về điều đó một cách vô thức. Nói theo cách nói của các nhà tâm lý học, trẻ con trong lứa tuổi dậy thì luôn thích tò mò tìm hiểu về những lĩnh vực mà chúng chưa được biết. Trong quá trình tìm tòi đó, tính năng động chủ quan của trẻ được phát triển rất nhanh, đồng thời các cháu luôn có hứng thú về một chuyên ngành nào đó. Trong bài nhật ký “Những suy nghĩ lạ lùng trong một buổi sớm mùa hạ” viết trong dịp nghỉ hè năm thứ nhất bậc sơ trung của Đình Nhi, đã phần nào thể hiện được tâm trạng đó:

Sáng sớm hôm nay, đang nằm trên giường, chả hiểu sao, tôi chợt nhớ đến câu chuyện có người bỏ thuốc mê vào trong hoa quả cho người khác ăn, đợi người đó mê đi thì hành hung. Chuyện này mới đựơc phát trên truyền hình. Thế mà tôi cứ nằm suy nghĩ miên man. Nghĩ rằng, thuốc mê mà để trong trái cây rất dễ bị phát hiện. Nếu hoa quả có thể gây mê cho con người, sẽ rất khó phát hiện ra. Tôi chợt nhớ, trong một lần thí nghiệm bài sinh vật, cô giáo đã pha mực đỏ vào lọ cắm hoa, rồi cắm một bông hoa hồng bạch. Ít lâu sau, các gân lá và cả các cánh hoa cũng đỏ hồng lên. Ồ! Vậy thì mình có thể dùng dung dịch thuốc mê tưới cho cây ăn quả, rễ cây sẽ hút lên để nuôi quả, hơi nước bay đi, thuốc mê sẽ đọng lại trong trái cây. Chắc chắn ai ăn phải trái cây đó sẽ bị gây mê. Các loại thuốc kháng sinh khác cũng có thể làm theo cách đó. Như vậy, sẽ có các loại trái cây trị bệnh, như táo chữa ho, cam chữa cảm… Lúc ấy, ai mà chẳng muốn ăn “thuốc”? Nhưng tại sao người ta không làm nhỉ? Ồ! Mình hiểu ra rồi. Nếu tưới cây bằng nước thuốc, nồng độ dung dịch thuốc tất sẽ cao hơn nồng độ trong tế bào thực vật, như vậy tế bào sẽ bị mất nước và khô héo. Những nhành hoa trong phòng thí nghiệm chẳng đã nhanh khô héo hay sao?

Tôi vươn vai ngồi dậy, bật cười vì những suy nghĩ vớ vẩn của mình. Nhưng nếu không học sinh vật thì làm gì có những suy nghĩ thú vị như thế!

 

Đoạn nhật ký “Những suy nghĩ buổi sớm” như một “giấc mộng giữa ban ngày” ấy của Đình Nhi đã chứng minh cho một nhận định chung của chúng tôi là: Đình Nhi không có năng khiếu khoa học tự nhiên. Bởi vì cháu chưa có biểu hiện hứng thú nghiên cứu một cách say sưa và kiên trì về khoa học tự nhiên. Thế nhưng, một bài nhật ký khác viết sau đó chừng hai mươi hôm, và nhiều sự việc khác sau đó đã làm chúng tôi một lần nữa khẳng định: về khoa học xã hội, Đình Nhi đã thể hiện một sự say mê mãnh liệt có chiều hướng phát triển lâu dài.

Khi đi đổ rác, tôi thường gặp một bà già nhặt rác, có lẽ là một bà già sống cô đơn, trông thật đáng thương! Nếu không cô đơn, thì già cả như thế tội gì phải làm một công việc vừa bẩn thỉu vừa nặng nhọc đến như vậy?

Một hôm trên đường tan học về nhà, tôi lại gặp bà lão ấy, đang khom lưng cào bới trong các thùng rác bẩn thỉu và hôi thối. Mái tóc bạc rối bời búi lại sau gáy, khuôn mặt vàng ệch đầy những nếp nhăn, tất cả như đều muốn nói lên sự vất vả và đau khổ của cuộc đời. Bà mặc một chiếc váy rách nát, chân đi giầy ba-ta bộ đội, ngón chân cái thò hẳn ra ngoài…

Không nén được xúc động, tôi đi đến bên bà, tò mò hỏi: “Bà ơi! Bà già thế rồi, còn làm những công việc này làm gì?” Bà chậm rãi, ngẩng đầu nhìn tôi, rồi lắc đầu thở dài: “Làm để mà sống cháu ạ!” – “Thế bà không có con à?” – “Có chứ! Bà được ba trai, một gái, tất cả đã thành gia thất cả rồi”. Thì ra bà không phải là bà già cô đơn, tôi nghĩ vậy, rồi hỏi tiếp: “Thế sao bà không ở nhà vui vầy với con cháu có hơn không?” – “Với con cháu à?” – Bà nhắc lại, rồi nở một nụ cười đau khổ: “Chúng nó đều đã có gia đình riêng cả rồi, có đứa nào thèm nghĩ đến mẹ đâu, cũng chả có đứa nào muốn nuôi bà già ốm yếu này. Chúng nó đều coi bà là đồ bỏ đi. Bà tuy già nhưng  vẫn còn sức khoẻ, vẫn cần phải ăn uống, không làm việc này, biết làm việc gì hơn”.

Nghe bà kể về những đứa con bất hiếu ấy của bà, tôi giận điên người. Tôi bảo bà: "Bà có thể làm đơn kiện họ, họ đối xử với bà như thế vậy là phạm pháp đấy!" - "Ôi dào!" Bà lại thở dài não ruột: "Đều là ruột thịt cả mà ai nỡ làm vậy. Mà có kiện cáo thì quan hệ mẹ con lại càng căng thẳng hơn, hơn nữa, chúng còn dám ngẩng đầu lên nhìn mặt ai nữa!" Tôi bất chợt thấy đau nhói trong tim. Tôi vội chạy về nhà, chọn lấy hai quả táo to nhất, chín nhất, lễ phép đặt vào tay bà: "Bà ơi! Cháu biếu bà hai quả táo này!" Tay bà run run đỡ hai quả táo, vô cùng xúc động, bà không nói được lời nào, lặng lẽ quay đi.

Trái tim tôi cứ đập liên hồi. Tôi nghĩ, trong xã hội chúng ta, một xã hội có truyền thống kính già yêu trẻ, hiếu thuận với mẹ cha, thế mà vẫn còn có những bà già như thế này, không được con cái quan tâm chăm sóc. Lầm lũi sống trong cô đơn cực khổ, thế mà lúc nào cũng nghĩ về con, hy sinh tất cả vì con. Tôi tự hỏi: "Mình có thể làm được điều gì cho những con người bất hạnh ấy?"

Những câu chuyện và tình cảm như vậy còn bắt gặp khá nhiều trong nhật ký của Đình Nhi viết trong thời kỳ học trung học. Ví như nỗi lòng thương cảm đối với những em bé bị thất học, trong bài "Mong cho ngày thứ 32 đến sớm", hoặc nhắc nhở mọi người hãy quan tâm đến nạn đói trên thế giới trong bài "Cảm nghĩ sau khi nghe truyện "Bữa tiệc của những người đói khát""... Mỗi lần đọc được những dòng nhật ký đó của Đình Nhi, chúng tôi đều tìm cách bàn luận thêm về cháu, chia sẻ với cháu về những niềm tâm sự đó, nhằm biểu dương cháu về tấm lòng biết quan tâm đến thế thái nhân tình. Chúng tôi cho rằng, quan tâm đến người khác, không chỉ là ban phát ân huệ cho người ta một cách đơn phương, mà ngược lại, những con người được Đình Nhi quan tâm ấy đã cho cháu một cơ hội để cháu tự vượt qua khỏi cái vòng ích kỷ cá nhân để đến với nhân quần. Chúng tôi phải cảm ơn họ rất nhiều.

Từ chỗ biết quan tâm đến những người xung quanh, Đình Nhi đã biết quan tâm cả đến những vấn đề của đất nước, của thế giới. Đây là cơ sở rất tốt để Đình Nhi xác lập chí hướng của mình trong giai đoạn lên học cao trung.

Khuyến khích Đình Nhi biết quan tâm đến người khác chúng tôi đồng thời luôn nhắc nhở cháu, phải luôn cảnh giác với những nhân tố không đảm bảo an toàn. Trong xã hội đầy những cạm bẫy đối với trẻ con (nhất là đối với các cháu gái), sự cảnh giác thường xuyên này là một điều kiện tối thiểu và bắt buộc để các cháu lớn lên, đứng vững được trong cuộc đời.

YÊU ĐƯƠNG SỚM?

PHẢI BIẾT ĐỀ PHÒNG TRƯỚC LÚC MANH NHA

Trong học sinh trung học, hiện tượng yêu đương sớm khá phổ biến, khi tôi đang viết những dòng này, có một bà mẹ đang đau khổ gọi điện cho tôi kể về việc đứa con gái của bà mới 12 tuổi đã sa vào con đường yêu đương...

Đối với học sinh trung học, yêu đương sớm chính là "cái hộp Pandore" trong thần thoại Hy Lạp. Nếu ai mở nó ra, các tai hoạ khủng khiếp trong cái hộp đó sẽ ào ạt bay ra tác oai tác quái. Yêu đương sớm có tác hại ghê gớm đối với tương lai của tuổi trẻ. Điều bất hạnh là, dù một trường học có quản lý gắt gao đến mức nào đi nữa, hiện tượng yêu đương sớm trong lứa tuổi học sinh vẫn cứ xảy ra. Hơn nữa, trong các trường trung học hiện nay, hiện tượng yêu đương sớm còn nghiêm trọng hơn nhiều so với thời Đình Nhi mới vào học sơ trung. Vì vậy, việc giúp cho các cháu biết khoá chặt "cái hộp Pandore" ấy lại là một điều vô cùng cần thiết.

Sau khi Đình Nhi được vào học Trường Chuyên ngữ không lâu, nhà trường đã mở hội nghị phụ huynh học sinh năm thứ nhất. Trong hội nghị đó, cô Trần, một giáo viên chủ nhiệm giàu kinh nghiệm, đã nêu thẳng vấn đề để các bậc phụ huynh cũng suy nghĩ và đề phòng:

"... Các cô các bác có nghĩ rằng, trong suốt 6 năm học ở nhà trường từ năm thứ nhất bậc sơ trung từ năm thứ nhất bậc sơ trung, đến năm thứ ba bậc cao trung, tiếp xúc gần gũi với nhau, ai dám chắc là không có vấn đề tình cảm. Chuyện yêu đương sớm trước tuổi trong học sinh rất dễ xảy ra". Các vị phụ huynh tất thảy đều giật mình lo lắng.

Yêu đương sớm là một vấn đề lớn mà vợ chồng tôi luôn canh cánh trong lòng. Trong số học sinh mà tôi từng làm chủ nhiệm, có một bé gái với đôi mắt đen tròn sáng rực, rất thông minh,thế nhưng đến năm thứ hai bậc sơ trung, một hôm lần đầu tiên nhận được một mảnh giấy của một bạn trai đưa đến. Rồi từ đó về sau là những bức thư tình tới tấp qua lại, tiếp đến là những cuộc hẹn hò trong đếm tối. Thế là thành tích học tập của cháu như đi cầu trượt, cứ trượt hoài đến mức phải lưu ban. "Ngoài cuộc thì sáng, trong cuộc thì quáng", cháu đã bỏ ngoài tai mọi lời khuyên bảo chí tình.

Đề phòng chuyện này xay ra với Đình Nhi, vợ chồng tôi đã tốn khá nhiều thời gian để bàn bạc, cố tìm ra nguyên nhân và biện pháp phòng ngừa.

Chúng tôi nhận định rằng, có ba nguyên nhân dẫn đến việc yêu đương quá sớm:

Trước tiên, tâm lý trẻ con được phát triển đến một mức độ nhất định, chúng sẽ nảy sinh một cảm xúc thích những người khác giới, và sau đó là vấn đề tình cảm sẽ nảy sinh. Hơn hai nghìn năm về trước, Kinh Thi đã nói: "Cỏ em mơn mởn đào tơ. Bao chàng trai trẻ thẫn thờ chạy theo". Trai gái yêu nhau đó là bản tính tự nhiên tất yếu của con người. Mấu chốt của vấn đề là ở chỗ thái độ của cháu trước sự rung động của trái tim non trẻ như thế nào. Và cha mẹ chỉ cần có biện pháp đúng đắn, sẽ có ảnh hưởng tích cực đối với thái độ ứng xử của các cháu.

Thứ hai, phim ảnh, những tiểu thuyết tình yêu sướt mướt, và cả những bài hát nỉ non đầy rẫy khắp nơi đã có ảnh hưởng tiêu cực thúc đẩy các cháu bước vào con đường yêu đương quá sớm.

Thứ ba, ảnh hưởng tiêu cực ngay trong một số bè bạn cùng trang lứa, cũng có tác dụng không thể coi thường.

Khi chuyện các cháu yêu đương trong lứa tuổi học trò đã trở thành chuyện phổ biến, chuyện bình thường, khi những tấm gương vẫn được bạn bè hâm mộ như những học sinh xuất sắc, những "liền anh, liền chị" trong giới học sinh cũng lao vào những cuộc yêu đương trước tuổi, tất nhiên sự tác động và sức lôi cuốn của nó đối với tâm lý các cháu thật là đáng sợ. Những "tấm gương" đó có sức mạnh ghê gớm lắm. Chính trong lúc đó, nếu lại có một anh chàng không đến nỗi đáng ghét lắm xuất hiện, rồi những mảnh giấy hẹn hò thơm mùi nước hoa, lại những bức thư tình sướt mướt, trong đó có rất nhiều những câu thơ trích dẫn dễ làm xúc động những trái tim non trẻ, thêm vào đó là những ánh mắt đắm đuối, những nụ cười khêu gợi, và rất nhiều sự chăm sóc ân cần đúng lúc... Làm sao những trái tim non nớt kia không gục ngã, điều đó chẳng có gì là lạ.

Khi một đứa trẻ đã trót sa vào con đường yêu đương quá sớm, khuyên nhủ chúng dừng lại là một điều rất khó. Biện pháp hiệu quả là phải "phòng ngừa từ xa". Biết vậy, nên chúng tôi cũng đã quyết định "mở chiến dịch phòng ngừa từ xa cho Đình Nhi".

Biện pháp ngăn chặn thứ nhất là: phim ảnh và các loại tiểu thuyết tình yêu là những trò mua vui trong cuộc sống, chỉ có thể xem chúng là những trò tiêu khiển, chứ không thể coi đó là cuốn sách giáo khoa cho cuộc sống.

Là một biên tập viên một tạp chí văn nghệ, chúng tôi có điều kiện thuận lợi hơn mà nhiều người không có: hiểu quá trình "sản xuất ra một minh tinh màn bạc" hay một tác phẩm văn nghệ nào đó.

Chúng tôi đặt kế hoạch khuyên nhủ Đình Nhi và triết lý của chúng tôi như sau: phim ảnh, đĩa hát và những cuốn tiểu thuyết ái tình nhan nhản hiện nay đối với những người sản xuất ra chúng cũng chỉ là những thứ hàng hoá kinh doanh. Thế là, các ông chủ ra sức tô son trát phấn, tuyên truyền quảng cáo cho thứ sản phẩm đặc biệt của mình, sao cho có thật nhiều người hâm mộ say mê sản phẩm của họ. Túi tiền của những người hâm mộ chính là nguồn tài sản của các ông và chủ các công ty. Đã có rất nhiều chuyện nực cười và rất đáng thương tâm do hậu quả của những thứ hàng hoá kinh doanh trên mang lại. Ở Nhật Bản có quá nhiều người say mê phim chuyện phương tây, đã tổ chức hội những người không lấy chồng để được "nổi tiếng". Thậm chí, có những người muốn được nổi tiếng hơn đã liều mình tự sát... Mỗi khi xảy ra một sự kiện bất hạnh do học đòi theo "mốt" các minh tinh như vậy, các minh tinh chẳng hề mất một sợi lông chân, dự luận xã hội lại một lần sôi động và các ông bà chủ những công ty lại được dịp hốt bạc nhiều hơn.

Ngoài ra, ngay từ nhỏ Đình Nhi đã đọc được khá nhiều sách viết về những con người nổi tiếng, được "gặp gỡ" với đủ loại các "ngôi sao", điều đó đã giúp cho cháu nhận thức rõ hơn chân giá trị của các "ngôi sao" bằng lý trí.

Trên cơ sở hàng loạt những sự thực đó, Đình Nhi đã biết cách lựa chọn và có được một quan điểm rõ ràng: đối với các loại ca khúc đang lưu hành "chỉ được thích thôi chứ không được say mê", phải luôn tỉnh táo trước những ngụ ý ngầm trong các bài hát, không được quá say mê để cho nó dắt mũi lôi đi. Đối với các loại tiểu thuyết ái tình, Đình Nhi vẫn không hề ưa thích. Đình Nhi luôn chán ghét các cảnh phong hoa tuyết nguyệt, bướm lả lơi trong các tiểu thuyết không có mấy giá trị đó. Ngay từ nhỏ, ĐÌnh Nhi đã được chúng tôi phân tích khá kỹ về những loại tiểu thuyết đó rồi. Xem ra, môi trường giáo dục đã phát huy tác dụng âm thầm thẩm thấu của nó.

Trên cơ sở đó, chúng tôi đã để cho Đình Nhi tự rút ra kết luận. Cháu đã dùng bút đỏ để viết vào mảnh giấy rồi dán ngay trước bàn học câu: "Phim ảnh và các loại tiểu thuyết tình yêu chỉ là trò mua vui, chỉ có thể xem chúng là trò tiêu khiển chứ không được coi là sách giáo khoa cho cuộc sống". Lời tổnh kết đó như một bức tưòng chắn không cho các nhân tố ngoại lai xâm nhập ảnh hưởnh đến tình cảm của Đình Nhi. Tất cả những sách báo, phim ảnh, băng đĩa có nội dung không lành mạnh đều bị đẩy ra khỏi cửa, tránh cho Đình Nhi những cám dỗ thấp hèn.

Biện pháp ngăn chặn thứ hai: Chúng tôi khẳng định với cháu rằng, trò chơi tình yêu đi vào thì dễ, rút ra thật khó.

Một ngày cuối tuần, Đình Nhi từ trường trở về nhà, vừa gặp ba mẹ cháu liền tíu tít kể về một chuyện khá thú vị ở trường:

"Ba mẹ biết không, ở lớp con hôm nay có một bạn nêu ra một sáng kiến: yêu đương sớm là rất có hại, cho nên, đương nhiên là không được yêu rồi. Nhưng cũng có thể chơi trò yêu đương, chỉ yêu giả vờ thôi. Như vậy vừa tránh được tác hại của tình yêu quá sớm, vừa có thể được hưởng chút thú vị của tình yêu. Ba mẹ thấy bạn ấy nói chuyện có buồn cười không?"

Chúng tôi đều không ai cười được, trái lại bắt đầu lo: đợi khá lâu không có chuyện yêu đương sớm, "con quỷ chín đầu" này đã bắt đầu xuất hiện rồi sao? Xem ra, cái trò nguỵ biện này cũng chẳng có gì hấp dẫn Đình Nhi cho lắm.

Ngay hôm đó, chúng tôi cùng ngồi lại bàn luận với Đình Nhi:

"... Cái lý luận về yêu giả vờ của bạn con, ba mẹ e rằng chính anh ta cũng chưa hiểu được rằng, trò chơi đó đi vào thì dễ mà rút ra thì thật là khó. Nếu đã chơi rồi, một khi một bên không tiếp tục chơi nữa, thì đối phương sẽ sinh lòng hối hận, nhẹ thì cãi vã liên miên, nặng thì tìm cách hại nhau, giết người trả thù. Báo chí thường đăng nhiều vụ án mạng như vậy. Ai dám bảo đảm rằng, trò chơi ấy của mình sẽ không kết thúc bằng nhiều sự việc bi thảm đến như vậy? Hoặc giả, bên này vẫn muốn chơi tiếp, mà bên kia lại muốn chấm dứt trò chơi, nỗi đau khổ do bị thất tình sẽ làm cho người ta thân tàn ma dại. Trên đường đi học chắc con đã gặp những cô gái phát điên, tóc rối bù mặt bẩn, hoa cắm đầy người, chỉ vì trót chơi trò yêu đương, rồi đối phương thi vào đại học, còn mình thì thi trượt, ở nhà. Thất tình mà điên, đáng thương hay đáng trách?"

Đình Nhi quả thực chưa lường hết được những hậu quả tai hại đó. Nghe xong cháu đã đi đến kết luận: trò chơi yêu đương không phải là trò đùa.

Biện pháp ngăn chặn thứ ba: Đừng vì sự đùa nghịch gán ghép của bạn bè mà tự mình biến đùa thành thật, cũng đừng để người khác vì hiểu lầm mà mơ mộng hão huyền.

Tuy vậy, nhưng vẫn còn có những hiện tượng đáng ngờ. Sự quan tâm của Đình Nhi đối với chuyện yêu đương hình như ngày một nhiều hơn. Mỗi lần từ trường trở về nhà, Đình Nhi thường kể nhiều hơn về những loại chuyện yêu đương.

Ít lâu sau, chúng tôi còn nghe được một câu chuyện có liên quan đến Đình Nhi. Cô giáo chủ nhiệm đã nói với chúng tôi, Đình Nhi có quan hệ khá gần gũi với một bạn trai ở trong lớp. Người bạn trai này cũng hơi nổi tiếng trong giới nữ sinh của nhà trường. Sự thân mật giữa Đình Nhi và người bạn trai ấy đã tạo ra những tiếng xì xào gán ghép ở trong lớp.

Chúng tôi lập tức nắm bắt ngay tình hình mà cô giáo vừa cung cấp. Chúng tôi nhận định, chắc chắn Đình Nhi chưa thực sự bước vào con đường yêu đương quá sớm. Có lẽ chỉ là sự mến nhau giữa học sinh nam và học sinh nữ mà thôi. Cảm thấy được gần gũi nói chuyện với nhau là thú vị và mới lạ. Ngoài ra sự nổi tiếng của người bạn trai trong giới nữ sinh đã làm cho ĐÌnh Nhi nổi tính tò mò.

Chúng tôi quyết định, nhân lúc hạt giống còn chưa nảy mầm phải lập tức dập tắt ngay. Giải quyết vấn đề ngay từ lúc mới manh nha bao giờ cũng dễ dàng hơn. Lần này thì mẹ đứng ra giải quyết, nói những chuyện thế này với con gái, mẹ nói tiện hơn. Thế là, ngay cuối tuần đó, mẹ và Đình Nhi có một cuộc nói chuyện khá dài.

Mẹ đã đi thẳng vào vấn đề, nhắc lại sự phản ảnh của cô giáo và các bạn với Đình Nhi. Đầu tiên mẹ khẳng định, nay sự việc của con cho đến thời điểm này coi như chưa có vấn đề gì. Thế nhưng, trong nam nữ thiếu niên, có nhiều người yêu nhau quá sớm chỉ vì bạn bè trêu đùa gán ghép lung tung, rồi chuyện đùa quá hoá thật. Cũng vì vậy, mà đã có nhiều học sinh học sơ trung vô tình sa vào chuyện yêu đương quá sớm. Con phải hiểu được điều đó. Bản thân mình không bao giờ được biến chuyện đùa thành chuyện thật. Ngoài ra, con cũng phải cố tránh đừng để người khác hiểu lầm, để người ta mơ tưởng hão huyền.

Trước đây, mẹ cũng đã nhiều lần khôn khéo răn đe, hơn nữa thái độ của mẹ rất khách quan cho nên ĐÌnh Nhi đã nghe lời. Cháu đồng ý với cách giải quyết của chúng tôi là dùng biện pháp dứt khoát và cứng rắn để giải quyết vấn đề. Ngay hôm sau đó, cháu bắt đầu xa lánh người bạn trai kia, không còn cảnh gần gũi cười đùa như trước nữa. Hơn nữa, trong khi giao tiếp với tất cả các bạn trai khác, cháu luôn giữ đúng mực, và luôn giữ một khoảnh cách nhất định.

Biện pháp ngăn chặn thứ tư: Yêu đương sớm tất sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu phấn đấu của cả đời người.

 

 

Ngay từ khi Đình Nhi mới vào tiểu học, chúng tôi đã cố ý bình phẩm những hiện tượng yêu đương trước tuổi được trình chiếu trên ti vi hoặc được đăng tải trên báo chí. Ngay trước mắt, cháu đã có một ấn tượng xấu về việc yêu đương quá sớm. Sau khi vào trung học, chúng tôi đã trực tiếp giảng giải cho cháu nghe về những hậu quả tai hại cho việc yêu đương quá sớm:

1. Yêu đương sớm tất sẽ ảnh hưỏng đến mục tiêu phấn đấu cả đời người. Trên thực tế, có nhiều học sinh trung học không làm chủ được những tình cảm ngây thơ ấu trĩ của mình, đã bỏ lỡ nhiều cơ hội đáng tiếc, đến khi thi trượt đại học, tình yêu ban đầu cũng tan vỡ, bấy giờ mới thấy được tác hại.

2. Yêu đương sớm chẳng khác gì mua trứng ấp trong túi vải, không thể dự đoán được rằng nó sẽ nở ra cái giống gì. Vì rằng học sinh trung học đang ở giai đoạn hoàn toàn chưa xác định được cuộc đời. Ở các cháu những đặc trưng tính cách, đạo đức, những khả năng sinh tồn trong xã hội, và nghề nghiệp trong tương lai hoàn toàn chưa xác định. Bạn cho rằng túi trứng này sẽ nở ra thiên nga, nhưng lại là trứng quạ, trứng rắn độc, trứng cá sấu, khi ấy sẽ thế nào?

3. Yêu đương sớm rất khó có được những kết cục mỹ mãn. Bởi vì, phàm những việc gì được bắt đầu bằng một sự say mê mù quáng, tất nhiên càng tỉnh, càng thấy nhiều những chỗ dở của nó, và thế là sinh ra chán ghét và ruồng rẫy. Hơn nữa yêu đương sớm tất sẽ làm trở ngại đến việc học hành của cả hai bên, trở ngại đến khả năng sinh tồn trong xã hội của cả hai bên. Cho dù sau này vẫn chung sống với nhau, nhưng vì học hành lỡ dở, nghề nghiệp bất ổn, cuộc sống khó khăn, khó tránh khỏi sự đay nghiến cắn rứt lẫn nhau, làm sao có được hạnh phúc vẹn toàn?

4. Yêu đương sớm còn tiềm ẩn một nguy cơ án mạng. Không tin sao? Ở vùng Đông Bắc vừa xảy ra một án mạng như thế đấy. Có một học sinh năm thứ ba bậc cao trung, học hành cũng bình thường thôi. Cùng trong lớp đó có một học sinh nữ học rất giỏi, xuất phát từ ý tốt đã chủ động đến giúp bạn trai học tập. Không ngờ, người bạn trai kia lại lầm tưởng là cô ta có ý yêu mình. Thế là ngày đêm yêu vụng nhớ thầm. Khi người bạn gái phát hiện ra điều đó và bắt đầu có ý định xa lánh người bạn trai. Nghĩ rằng, bạn gái đã có người yêu khác, bạn trai quyết chí báo thù kẻ đã giành mất người yêu trong tay mình. Thế là thảm kịch xảy ra ngay trong lớp học. Chàng trai "thất tình" vác dao đâm chết người bạn trai cùng lớp, mà chàng ta nghĩ là tình địch của mình rồi tiện tay đâm luôn người bạn gái đã giúp mình học tập, may mà chỉ bị thương phải đi nằm viện. Đáng thương thay, hai học sinh bị đâm thực ra lại chẳng có tình ý gì với nhau. Cái bệnh si tình thường hẹp hòi và cố chấp để rồi dẫn đến mù quáng và mất hết tính người. Đó là một quy luật đáng sợ.

Ngoài việc nói chuyện có chủ định vớ Đình Nhi, chúng tôi còn thường xuyên kể cho cháu nghe những chuyện liên quan đến việc đó, cốt nhằm khắc sâu ấn tượng cho cháu. Sự thực đã chứng minh rằng biện pháp "phòng ngừa từ xa" rất có hiệu quả. Trong suốt giai đoạn học trung học, Đình Nhi không hề sa vào vũng bùn yêu đương quá sớm, vì vậy tâm hồn và thể chất đều phát triển lành mạnh, mục tiêu phấn đấu không bị xung đột giữa cha mẹ và con cái đe doạ.

CON GÁI CÀNG ĐẸP, SỰ NGUY HIỂM CÀNG TĂNG

Đình Nhi càng lớn càng xinh, điều này đã thể hiện rõ từ khi cháu còn nhỏ tuổi.

Có nhiều người cho rằng sắc đẹp là kho của cải vô tận của người con gái. Câu nói đó đúng là trong khá nhiều trường hợp. Có điều, sự thực ngoài đời lại mách bảo cho chúng tôi biết rằng, trong nhiều trường hợp lại không phải như vậy. Có nhiều cháu gái nét xinh vẻ đẹp lại đồng nghĩa với một tương lai trắc trở và bất hạnh. Nhất là trong nền kinh tế thị trường, những cảnh ngộ như vậy càng nhiều hơn.

Nói chung, người đẹp ít thành tài, bởi vì sự xinh đẹp thường được nhiều người nuông chiều yêu quý, dễ làm cho các cháu vừa kiêu căng vừa lười biếng. Về cơ bản điều đó đã tước bỏ đi khả năng thành tài của các cháu.

Không có thực tài tất yếu sẽ dẫn đến một điều khá nguy hiểm, đó là bắt buộc phải dựa dẫm vào người khác.

Sắc đẹp cũng chỉ là một "nguồn tài nguyên hữu hạn", tuổi thọ không dài, một khi nhan sắc tàn phai, hoa tàn nhuỵ rữa thì biết dựa vào đâu để tồn tại.

Sắc đẹp nhiều khi cũng là nguyên nhân của rất nhiều tai hoạ. Những cảnh ngộ bi thương này ta có thể thấy nhan nhản khắp nơi.

Vậy nên ngay từ nhỏ, chúng tôi đã tìm đủ mọi cách không để cho Đình Nhi quá chăm lo đến sắc đẹp của mình:

Một là, chính tôi (Trương Hân Vũ), một người cha của cháu, thường xuyên khen cháu đẹp để cháu làm quen với những lời khen ngợi của những người khác giới, sau này có được nghe những lời tán dương tâng bốc có dụng ý của những người con trai khác, cháu sẽ không đến nỗi phải ngất ngây không còn biết đến trời đất là gì trước những lời đường mật đó.

Hai là, cứ phải nói thẳng cho Đình Nhi hiểu rằng, dù có đẹp mấy cũng không được cộng thêm điểm trong các kỳ thi cử, bởi vậy, muốn nên người, phải biết dồn hết tâm sức vào việc học tập, rèn luyện tài năng của chính mình. 

Ba là, ăn mặc phải thật giản dị, tóc tai không kiểu cách, không phấn son loè loẹt, đi đứng nói năng luôn đúng mực... Tránh nổi trội để người khác phải trông vào, như vậy độ an toàn càng được đảm bảo.

Chiến lược này quả thật rất có hiệu quả.

Có điều Đùnh Nhi càng lớn, mà chỉ dựa vào mấy biện pháp trên thôi thì chưa đủ. Nhất là sau khi vào ở nội trú trong trường, càng học lên cao, tên tuổi Đình Nhi càng xuất hiện nhiều hơn trên bảng vàng thi đua của nhà trường, "tiếng tăm" càng nổi trội hơn. Nhất là sau khi tham gia đóng bộ phim truyền hình nhiều tập "Trời xanh". Đã có nhiều bạn học sinh lớp dưới luôn coi Đình Nhi là một tấm gương phấn đấu của chính mình, rồi lại có nhiều con mắt của các bạn trai đắm đuối nhìn theo. Bạn bè gặp nhau, có nhiều người phải thốt lên: "Đình Nhi ạ, cậu càng lớn càng xinh!" Trong những tấm thiệp chúc mừng năm mới, nhiều bạn trai gọi Đình Nhi là "người đẹp", và đến năm học cuối bậc sơ trung, Đình Nhi được các bạn đặt cho cái tên là "nàng tiên cá xinh đẹp".

Cứ thế này chẳng mấy chốc Đình Nhi rất có thể sẽ sinh ra kiêu căng và lười biếng. Một khi mầm bệnh này đã ăn sâu bám rễ, rất khó lòng mà dứt ra được. Sáng suốt hơn cả vẫn là sử dụng biện pháp ngăn chặn từ trước, phòng ngừa từ xa.

Nếu những biện pháp trước đây chỉ mang tính chất "phòng bệnh là chính" có chiều hướng né tránh, đến bây giờ phải ra sức sử dụng đến con dao phẫu thuật của bác sĩ ngoại khoa, cắt bỏ các ung nhọt có liên quan đến "căn bệnh sắc đẹp" để Đình Nhi có thể toàn tâm toàn ý lao vào việc học hành và rèn luyện.

Bằng những điều tai nghe mắt thấy đã nhiều năm, tôi bắt đầu phân tích nguyên nhân nội tại của hiện tượng "hồng nhan bạc mệnh" ở những người con gái đẹp có "căn bệnh hồng nhan" đã phát sinh nảy nở như thế nào, nó sẽ tạo thành những thói xấu gì, để rồi từng bước huỷ hoại cả đời mình. Tôi đã viết những điều tự mình tổng kết ấy vào một mảnh giấy, đem dán ngay cạnh trước gương soi. Đây là biện pháp "nói chuyện gián tiếp" tôi thường sử dụng khi Đình Nhi bước vào lứa tuổi "thích chống đối". Làm như vậy để ĐÌnh Nhi mỗi lần chải tóc soi gương đều có thể nhìn thấy và suy nghĩ:

"Hồng nhan thường bạc mệnh, chủ yếu tự trách mình

Quen nuông chiều từ nhỏ, ích kỷ lại kiêu căng

Thích ăn ngon mặc đẹp, biếng học lại biếng làm

Thực tài thì không có, nhưng lại thích giàu sang

Kiến thức thì nông cạn, lại không chịu luyện rèn

Việc gì cũng không biết, chỉ ăn diện là quen.

Dựa dẫm và mánh khoé, chỉ cốt được an nhàn.

Thích tâng bốc phỉnh nịnh, chối bỏ mọi lời khuyên

Ý chí thì bạc nhược, mê lạc thú thấp hèn

Khó khăn thường nản chí, thất bại gục ngã lăn

Muốn chữa căn bệnh hồng nhan,

Thực tài thực lực phải luyện rèn,

Bao nhiêu ham muốn thấp hèn,

Quyết tâm gạt bỏ, gắng lên bằng người.

Lời cha mẹ nói không sai,

Cá không ăn muối, cá thời sẽ ươn."

Trong khoảng hơn một năm sau đó, chúng tôi vẫn thường xuyên nhắc nhở cháu chuyện này, hơn nữa còn dẫn chứng ra hàng loạt chuyện người thực việc thực để khắc sâu ấn tượng cho cháu.

Rèn luyện cho mình có thực lưcj, thực tài đó là mục tiêu chiến lược mình Đình Nhi luôn phấn đấu.

Sau này, những nghề nghiệp mà cháu luôn mơ ước đã có nhiều lần thay đổi, khi muốn làm một nhà khoa học, lúc lại muốn trở thành cô giáo... nhưng những mục tiêu chiến lược kia không bao giờ thay đổi.

CÓ ĐƯỢC PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP TỐT,

ĐÌNH NHI LUÔN ĐỨNG ĐẦU TRONG CÁC CUỘC CẠNH TRANH

Với chế độ thi cử hiện nay, kết quả thi tốt luôn là một điều tối quan trọng trong việc thực hiện lý tưởng của cuộc đời. Ngay cả trong các nước phát triển, kết quả thi tốt vẫn có một ảnh hưởng quan trọng đối với tiền đồ của học sinh. Bởi vậy, khả năng và thành tích học tập luôn chiếm một tính yếu trọng nhất định trong việc giáo dục tố chất cho học trò.

Muốn để cho Đình Nhi có được một kết quả học tập thật tốt trong giai đoạn học sơ trung, có thể có hai cách được lựa chọn như sau:

Một là áp dụng biện pháp “thúc đẩy”, bài tập nào khó, ba mẹ giúp Đình Nhi gợi ý, giảng giải để cháu hiểu và làm được, môn nào yếu sẽ tạo mọi điều kiện để cho cháu vươn lên. Cha mẹ luôn sẵn sàng như một “đội cứu hoả”, ở đâu có hoả hoạn là xông đến đó ngay. Biện pháp này tuy có giúp Đình Nhi nhanh chóng đạt kết quả cao, song lại thiếu cơ sở vững chắc, một khi lực thúc đẩy không còn nữa, kết quả học tập khó mà giữ vững được.

Biện pháp lý tưởng hơn là, phải bồi dưỡng để Đình Nhi chủ động tạo ra một động lực thúc đẩy, tức là để Đình Nhi có đầy đủ khả năng tự giải quyết được mọi vấn đề trong học tập, và một quyết tâm giành thắng lợi trong mọi cuộc cạnh tranh. Chúng tôi đã chọn biện pháp này.

Để đạt được mục đích như mong muốn, chúng tôi tập trung bồi dưỡng cho Đình Nhi mấy loại khả năng sau:

Trước hết là khả năng tự học

Từ bậc sơ trung, học sinh đã phải dựa vào khả năng tự học của mình, và càng ngày khối lượng tự học càng phải gấp bội. Nếu biết nhìn xa hơn chút nữa, sẽ thấy rằng trong thời đại kinh tế tri thức này, sự lạc hậu và đổi mới tri thức đang phát đạt đến tốc độ kinh người. Có thể những tri thức bạn vừa học được ở năm thứ nhất bậc đại học, không đợi đến khi bạn tốt nghiệp, những tri thức ấu đã trở thành lạc hậu, lỗi thời rồi. Đối với khá nhiều người, việc học tập đã trở thành nhiệm vụ suốt đời. Điều đó đặt ra một yêu cầu khá cao đối với khả năng tự học.

Có lần, cô giáo yêu cầu mỗi học sinh hãy tập viết một đoạn văn ứng dụng. Từ trước đến nay, Đình Nhi chưa viết thể loại này bao giờ, cháu cứ loay hoay cắn bút, lúng túng như gà mắc tóc, không biết nên viết thế nào. Hồi lâu, cháu chạy đến tìm tôi, tôi không giảng giải cho cháu một lời nào, chỉ lẳng lặng rút ra từ trên giá sách xuống quyển “Khái luận về thể loại văn ứng dụng” đưa cho cháu.

“Ôi! Ba không nhầm đấy chứ!” Vừa cầm lấy cuốn sách, Đình Nhi đã hốt hoảng kêu lên – “Đây là sách dùng cho sinh viên đại học, con mới học sơ trung, ba không nhớ à?”

“Chính vậy, ba đang muốn đặt ra yêu cầu rất cao đối với con, chẳng lẽ quyển sách này không đáng để con đọc một chút hay sao?” – Tôi mỉm cười khích lệ con.

Bị chọc tức như vậy, Đình Nhi cắm cúi đọc luôn. Đầu tiên, có vẻ như bị bắt buộc, sau dần cháu đã hiểu được đôi phần, rồi ngày càng hứng thú hơn. Ồ! Thì ra việc tự học chẳng có gì ghê gớm lắm. Cháu đã thấy vững tin hơn với khả năng tự học của mình. Sau này còn nhiều lần như thế nữa, khả năng tự học của Đình Nhi đã tiến bộ hơn nhiều. Điều này có thể có tác dụng rất lớn đối với việc nâng cao thành tích học tập của cháu sau này.

 

Thứ hai là khả năng ghi nhớ

Việc học tập ở bậc sơ trung có một sự khác biệt rất lớn so với thời tiểu học. Đó chính là lượng tri thức bắt buộc phải ghi nhớ tăng lên gấp bội. Lên cao trung, rồi lên đại học, cứ mỗi lần leo lên một bậc, đương nhiên việc ghi nhớ càng phải tăng cao. Nếu không nắm được kỹ năng ghi nhớ một cách có hệ thống và khoa học, chắc chắn việc học tập sẽ vất vả hơn nhiều mà hiệu quả không cao. Ngay từ khi học lớp năm, lớp sáu bậc tiểu học, Đình Nhi đã bước đầu nắm được một số kỹ năng ghi nhớ. Thế nhưng bước vào bậc sơ trung, những cách ghi nhớ đó không còn phù hợp. Vì vậy, tôi giành khá nhiều thời gian để từng bước giảng giải cặn kẽ cho cháu về nguyên tắc lý luận, về thực hành cụ thể những kỹ xảo ghi nhớ mà tôi chắt lọc trong cuộc sống và công tác của mình. Không những vậy, tôi bắt Đình Nhi phải ghi chép cẩn thận, thứ nhất là để chóng nhớ và thứ hai là thực hành nếu có quên, thì giở ra xem, cho đến khi thành thục.

Từ đó về sau, Đình Nhi đã biết tự điều chỉnh và sắp xếp việc học tập theo nguyên tắc ghi nhớ khoa học. Ví dụ, việc ôn tập bài vở có cần thiết đến 16 giờ để tránh mọi sự lãng quên. Gặp hàng loạt những thuật ngữ giống nhau phải biết phân loại và rút gọn, tránh việc chiếm dụng một cách vô ích khoảng không gian ghi nhớ quý báu ở trong đầu. Gặp một bài thật dài, phải biết phân đoạn và tìm ra những đặc trưng khác nhau của từng đoạn, tránh nhớ máy móc, đọc ra rả như cuốc kêu mà kết quả chẳng được là bao…

Quỹ thời gian của mỗi người là có hạn. Nếu bạn có biện pháp ghi nhớ khoa học, tất một phút của bạn có thể tác dụng bằng cả giờ. Vì vậy, nếu biết sử dụng thời gian có hiệu quả, đương nhiên quỹ thời gian của bạn cũng được tăng lên. Bạn không chỉ hoàn thành tốt công việc của mình, mà còn tiết kiệm được khá nhiều thời gian để làm những công việc khác cần thiết cho đời. Bởi vậy, nắm chắc kỹ năng ghi nhớ, có thể coi là một biện pháp có ý nghĩa chiến lược.

Thứ ba, học có trọng điểm cũng là một phương pháp học tập khoa học.

Tôi đã thực nghiệm, một quyển giáo trình kinh tế chính trị học dầy khoảng 200 trang, một người lớn có trí nhớ tốt cũng phải mất 20 ngày mới đọc xong. Nhưng đến khi gấp sách, nhắm mắt nhớ lại, có khi chẳng nhớ được tí gì, mà chỉ còn một số ấn tượng lơ mơ. Nhưng nếu học theo cách có trọng tâm, trọng điểm, bước thứ nhất chỉ cần đọc kỹ phần mục lục, để nắm được kết cấu của toàn bộ giáo trình; bước thứ hai, đọc tiếp  những tiêu đề nhỏ và đọc kỹ những đoạn in đậm của từng phần, để hiểu được nội dung chính của từng phần ấy. Cộng nội dung của cả hai phần đấy, nếu viết ra cũng chưa đầy ba bốn trang sách. Cho dù một người có trí nhớ rất tồi, cũng vẫn nhớ được những trọng tâm đó một cách dễ dàng. Cuối cùng mới đọc kỹ từng chương tiết, để nắm được sự lập luận và dẫn chứng của nó. Kết quả chỉ mất khoảng chục hôm, bạn có thể hiểu và nhớ được những nội dung chính của cuốn giáo trình này, bạn có thể yên tâm dự thi và điểm thi chắc chắn cũng không phải là thấp.

Tại sao cách học có trọng tâm trọng điểm này lại có hiệu quả cao như vậy? Vì, ở đây đã áp dụng phương pháp học tập theo nguyên lý “ngăn tủ thuốc bắc”. Ví như, nếu bạn đem tất cả đồ vật, của cải của một gia đình vứt bề bộn trên nền nhà, tất cả ngăn nhà đó trông rất đáng sợ. Bạn muốn tìm một thứ gì trong đống đồ vật ấy, chắc sẽ mệt vô cùng, càng lục lọi càng rối rắm hơn. Thế nhưng nếu bạn biết phân biệt các loại các đồ vật ấy rồi sắp xếp theo thứ tự từng hạng mục, cái nào đáng để hòm, cái nào đáng để tủ… Thứ nào ra thứ ấy, khi cần dùng đến, đỡ mất công lục lọi.

Cách nhớ có trọng tâm, gần giống như cách nhớ của người bốc thuốc bắc, trước tiên phải ghi nhớ vị trí của các ô ngăn kéo trong một chiếc tủ tường có đến hàng trăm ô. Sau đó nhớ đến từng khu vực đựng các loại thuốc gì, rồi nhớ đến chủng loại thuốc đựng trong từng ô ngăn kéo. Cuối cùng mới nhớ đến tính năng, xuất xứ, số lượng, chất lượng của từng loại thuốc trong mỗi ô ngăn kéo. Ngoài việc học ngoại ngữ phải ghi nhớ máy móc ra, các môn học khác trong chương trình trung học và đại học đều thích hợp với cách ghi nhớ này, nhất là đối với các môn đòi hỏi sự phân tích và suy luận nhiều. Đình Nhi đã sử dụng khá hiệu quả cách học này.

Thứ tư, thường xuyên lấp lỗ hổng, cũng là một phương pháp học tập có hiệu quả.

Dù là  học sinh giỏi, cũng không tránh khỏi có những lỗ hổng về kiến thức trong quá trình học tập. Nếu cứ mở sách giáo khoa ra để dò tìm lỗ hổng, việc này chẳng khác gì mò kim đáy bể, chắc chắn sẽ tìm không thấy mà chỉ tổ làm mình mất thời gian. Bởi vì các lỗ hổng trong kiến thức thường là tản mạn và không nhiều, chỉ đến khi dùng đến mới thấy mình bị hổng. Bởi vậy, biện pháp mở chiến dịch để dò tìm là không thích hợp.

Chúng tôi yêu cầu Đình Nhi phải có một cuốn “Sổ tay ghi lỗ hổng” bất kỳ lúc nào, môn học nào hễ thấy chỗ nào chưa nắm chắc phải ghi ngay lại. “Trí nhớ có tốt mấy cũng không bằng một mẩu bút chì”, tất cả các lỗ hổng về kiến thức rải rác trong hàng chục cuốn sách giáo khoa dày cộp, đều tập trung trong một cuốn sổ con. Có nó rồi ta sẽ tiến hành phân loại và tìm cách san lấp. Như vậy sẽ thuận lợi hơn nhiều.

Đình Nhi đã sử dụng hiệu quả biện pháp học tập này.

Cũng cần phải nói thêm là, việc áp dụng tất cả những phương pháp trên, đều có một cơ sở rất quan trọng: sự say mê học tập, khao khát vươn lên của chính bản thân Đình Nhi. Chính nhờ nó mà Đình Nhi đã mạnh dạn áp dụng mọi biện pháp trong học tập.

Ý chí và nghị lực ấy của Đình Nhi khiến chúng tôi chỉ cần áp dụng “chính sách khen thưởng nhẹ nhàng” đối với mọi thành tích học tập của Đình Nhi. Ngay cả những thành tích có tầm quan trọng như đoạt giải nhì trong kỳ thi vật lý toàn quốc, chúng tôi cũng chỉ mua cho cháu một hộp băng video và một cặp cầu lông làm kỷ niệm. Bởi vì, tinh thần là một sự đền đáp xứng đáng nhất đối với công lao học tập của Đình Nhi, nó đem lại cho cháu sự sung sướng và thoả mãn, không một thứ vật chất nào có thể so sánh được.

Ngoài ra, đối với các vấn đề còn tồn tại trong quá trình học tập các bộ môn cụ thể của Đình Nhi, về cơ bản chúng tôi áp dụng phương châm “không dẫm chân vào vườn cải của người khác”. Vì rằng, bản thân nền giáo dục Trung Quốc đang ở trong quá trình thăm dò và cải cách, năm nào cũng có những thay đổi nhất định. Nếu không trực tiếp nằm trong ngành giáo dục, rất khó mà nắm vững được những thay đổi tinh vi và tế nhị  của nó. Nếu cứ mù quáng mà phụ đạo hoặc bắt bẻ học sinh theo nếp cũ của mình, tránh sao khỏi những sự trật khớp đối với công việc giảng dạy ở nhà trường, làm cho con cái thêm lúng túng, không biết nên theo ai cho phải, như vậy là phản giáo dục. Điều quan trọng hơn nữa là, đội ngũ giáo viên trong Trường Chuyên ngữ là một đội ngũ giỏi về chuyên môn, vừa giàu kinh nghiệm trong quản lý. Sự say sưa học hỏi của Đình Nhi, cộng với những phương pháp học tập mà chúng tôi đã trang bị cho cháu, Đình Nhi có đủ sức để giải quyết tất cả mọi vấn đề học tập ngay tại lớp. Nhờ vậy mà chúng tôi có thể tập trung toàn bộ sức lực suy nghĩ cho việc bồi dưỡng nhiều tố chất khác cho Đình Nhi, ngoài học tập, để Đình Nhi phát triển toàn diện và lành mạnh.

Ngay từ khi còn nhỏ, Đình Nhi đã được rèn luyện để có được một thói quen làm bất cứ việc gì cũng phải chú ý đến tính hợp lý của nó. Vì quen như vậy, cho nên Đình Nhi luôn đòi hỏi người khác cũng phải làm như vậy. Khi học tiểu học chưa phải nội trú, nên vấn đề này chưa thể hiện rõ rệt lắm. Sau khi vào nội trú trong trường Chuyên ngữ, tình hình đã khác.Học sinh trong trường phải chung sống suốt 24 giờ trong ngày. Việc đối xử với bạn bè, Đình Nhi nhiều khi tỏ ra thiếu bình tĩnh, thiếu khoan dung và chín chắn.

Các bạn trong phòng của Đình Nhi ở, luôn làm tốt công tác vệ sinh, thường xuyên được chấm điểm 10, thế mà có hai ngày liền chỉ được điểm 9. Đình Nhi vốn quen tính cẩn thận, gọn gàng, ngày đầu tiên còn cố chịu, sang đến ngày thứ hai, không thể chịu được nữa, Đình Nhi liền gọi hai bạn cùng phòng, bạn S. và bạn L. đến trách mắng: “Tuần này đến phiên hai bạn trực nhật, mà hai bạn làm vệ sinh như thế à?” – “Còn làm thế nào nữa?” Hai bạn phản ứng, Đình Nhi tức quá, kể ra hàng loạt những việc làm chưa tốt để trách cứ hai bạn. Trước những sự thực quá rõ ràng, hai bạn S. và L. không chối được, nhưng ấm ức không vui. Sự phản ứng của hai bạn cùng phòng làm Đình Nhi nhận thấy, hình như mình có cái gì chưa ổn lắm, nhưng không biết nên làm thế nào cho phải. Cháu đã ghi chuyện này vào nhật ký rồi than thở: “Quả thật mình chẳng biết nên xử lý như thế nào đối với những loại sự việc như thế này”.

Cô chủ nhiệm xem xong, phê sang bên cạnh: “Cần chú ý phương pháp”.

Lại một lần khác, xưởng phim tài liệu của Nga Mi cử một phóng viên đến trường quay phim. Họ quay một tiết học tiếng Anh của lớp A. Ở lớp B của Đình Nhi, có nhiều bạn đang nghển cổ trông chờ, chắc mẩm sau khi họ quay xong ở lớp A, thế nào cũng đến lượt lớp mình. Thế nhưng, từ lớp A đi ra, nhóm phóng viên đó thu dọn đồ đạc, đi thẳng không nhòm đến lớp B. Các bạn lớp B thất vọng, có bạn đã hét toáng lên: “Thật là bất công!”. Đình Nhi cũng nằm trong số đó.

Tan học về phòng ở, Đình Nhi còn chưa hết tức, liền đem chuyện này viết vào nhật ký: “Cả lớp chúng con đều bất bình, tại sao quay ở lớp A nhiều thế mà không quay ơt lớp chúng con? Chúng con cũng không thích nổi tiếng, nhưng đối xử phải công bằng chứ!”

Đình Nhi lên tiếng đấu tranh cho quyền lợi của tập thể. Chưa hết, dưới bài nhật ký đó, Đình Nhi còn vẽ một bức tranh minh hoạ: mười mấy cái đầu với vẻ mặt tức giận, miệng há hốc, hô to: “Tại sao vậy? Quyển nhật ký được gửi ngay tới cô chủ nhiệm.

Thực ra, sự việc lại rất giản đơn: mục đích của nhà trường là mời Đoàn làm phim đến quay một tiết giảng của một cô giáo dạy tiếng Anh, mà giáo viên này lại không dạy ở lớp Đình Nhi, sự việc không liên quan gì đến lớp B cả.

Những chuyện hay tức giận không đâu ấy của Đình Nhi, đã khiến tôi phải suy nghĩ.

Một người có học thức, trước một sự việc hoặc người mình không hài lòng, phải có thái độ bình tĩnh và đúng mực. Biết cách nào đó có hiệu quả nhất khiến cho đối tượng hiểu ra vấn đề mà tự sửa. Chỉ biết giận dữ kêu ca, oán trời oán đất là một việc làm rất tầm thường.

Hơn nữa, có nhiều việc dễ làm ta tức giận, nhưng thực ra những việc vặt đó chẳng có liên quan gì đến mình, là người có kiến thức, tất phải biết khoan dung độ lượng. Nhà yêu nước Lâm Tắc Từ đã nói: “Trăm sông dồn về biển cả, ôi lòng biển rộng bao la!”

Đức độ khoan dung là một nét đẹp, sáng ngời trong nền văn hoá truyền thống của Trung Quốc. Đây cũng là một phẩm chất tốt đẹp mà hầu hết các dân tộc trên thế giới đều thừa nhận. Hơn nữa, khoan dung còn là một tố chất tâm lý không thể thiếu đối với một người làm nên sự nghiệp. Người Trung Quốc thường nói: “Lòng người quân tử chứa được trăm thuyền”, có rất nhiều trường Đại học nổi tiếng ở Mỹ trong việc đào tạo nhân cách cho học sinh đòi hỏi trước tiên phải biết khoan dung.

Về mặt này, người giảng giải cặn kẽ và thấu triệt nhất chính là ông Hồng Ứng Minh, một học giả đời Minh. Cuốn sách “Thái căn đàm”, một kiệt tác nói về việc tu dưỡng đạo đức của ông đã đề cập khá phong phú đến những nghiên cứu sâu sắc về tâm lý xã hội, tổng kết khái quát những quy luật cuộc sống. Riêng về phẩm chất khoan dung, ông có cách lý giải không giống với nhiều người khác, ông đã chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa tính khoan dung với các phẩm chất đạo đức khác như khoan dung có mối quan hệ mật thiết với lòng nhân ái, tính ngay thẳng và phẩm chất liêm khiết. Đó cũng chính là “thái độ đúng đắn” mà tôi hằng hy vọng ở Đình Nhi.

Ở bậc sơ trung, Đình Nhi học được chút ít cổ văn. Tôi bèn chọn một vài câu trong cuốn sách trên của ông Hồng Ứng Minh ghi lại để Đình Nhi tham khảo.

“Trong sạch thì mới biết khoan dung, nhân ái thì mới biết độ lượng, sáng suốt thì mới biết đúng sai, ngay thẳng thì mới không thiên lệch”.

“Chê trách cái sai của người khác không nên gay gắt quá, cốt sao để người ta có thể tiếp thu được; răn dạy người khác chớ nên quá cao siêu, cốt sao để người ta có thể làm theo được.”

“Nước trong quá thì không có cá, người yêu ghét rạch ròi quá thì ít bạn dám gần.”

Chỉ các nguyên tắc không, đương nhiên chưa đủ, còn phải thông qua hàng loạt những sự việc cụ thể để hiểu được cách vận dụng các nguyên tắc đó như thế nào. Mỗi khi Đình Nhi có điều gì không được bằng lòng hoặc buồn bực, chúng tôi đều nhân các buổi họp mặt cuối tuần, dành ra vài chục phút để phát triển cho cháu hiểu. Đồng thời chỉ rõ nguyên nhân của sự việc, nên có thái độ như thế nào là thích hợp nhất.

Khả năng nhận thức của Đình Nhi khá tốt, cháu nhanh hiểu ra vấn đề. Từ đó những chuyện tức giận không đâu đã dần ít đi.

Sau này, càng ngày cháu càng tỏ ra chín chắn. Nhất là sau khi cháu học cao trung, tầm mắt đã biết nhìn rộng hơn, toàn diện hơn. Có lần, lớp của Đình Nhi định trình diễn một vở kịch cổ điển, các bạn đều đề cử Đình Nhi đóng vai chính, vì Đình Nhi đã từng đóng phim truyền hình. Thế nhưng Đình Nhi đã chủ động xin nhận một vai phụ, chỉ nói một vài câu trên sân khấu. Cháu đã về tâm sự với chúng tôi: “Là một người đứng ra tổ chức diễn các tiểu phẩm bằng tiếng Anh, con rất mong để cho các bạn có dịp phát huy hết sở trường của mình, có vậy hoạt động ngoại khoá mới có ý nghĩa thực.”

Phải biết rõ mọi trò bịp bợm, đảm bảo an toàn cho chính bản thân.

Thực thà là một nét đáng quý trong kho tàng văn hoá truyền thống Trung Hoa. Thực thà khiến mọi người gần gũi và thân thiện, thúc đẩy sự nghiệp mau chóng thành công, làm cho cuộc sống của mình tràn đầy hương vị ấm áp của tình thân ái.

Ngay từ hồi còn nhỏ, chúng tôi đã dạy Đình Nhi phải biết sống thực thà. Để Đình Nhi luôn ghi nhớ điều đó, chúng tôi đã viết một mảnh giấy, dán ngay trước bàn học của cháu với câu: “Thực thà là cha quỷ quái, thủ đoạn dù có tinh vi đến mấy, rồi cũng bị lộ. Thực thà khiến người ta gần gũi, thủ đoạn sẽ bị người ta chê sợ và lánh xa.”

Thế nhưng thực thà lại là con dao hai lưỡi: “Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy”, nếu ở đâu, với ai cũng thật thà thì có lúc gây nên đại hoạ, nhất là đối với con gái phải luôn biết giữ mình. Về mặt này, trong việc giáo dục con cái, nhiều bậc cha mẹ còn rất mơ hồ và thường xem nhẹ.

Chỉ cần lật giở vài trang báo, hoặc lướt qua những chương trình thời sự trên ti-vi, ta dễ dàng bắt gặp những mẩu tin thật rùng mình:

Cách đây vài năm ở thành phố Vũ Hán, một nữ nghiên cứu sinh bị một cô nhà quê lừa bán cho một gã trai làng mù chữ bằng một chiêu rất giản đơn, quen thuộc: “Chị hãy tranh thủ đi buôn với em chuyến này, kiếm vài nghìn đồng ăn học!” Tham một món lời vô hình, cô nghiên cứu sinh kia sa vào cạm bẫy, chính là vì lòng tham và nhẹ dạ cả tin.

Năm ngoái, ở Thành Đô, một nữ sinh đại học tên Thiểu Ân, tranh thủ kỳ nghỉ hè đi làm thêm kiếm tiền ăn học. Cô đã đến chợ lao động ở bên cầu Cửu Nhãn để tìm việc làm. Cô bị một con mẹ mìn khoảng 40 tuổi  lừa gạt, nói là đưa cô đi tìm việc, mụ đưa cô đến một làng quê tỉnh Sơn Tây. Ở đây cô bị bán làm vợ một người mù chữ. Cô khóc lóc cầu xin, đập đầu chống cự, mụ mẹ mìn chẳng mảy may động lòng thương hại. Nhiều lần tìm cách bỏ trốn, nhưng không thành. Cuối cùng đành cam chịu sống một đời trâu ngựa, may cho cô, trong chiến dịch “chống buôn bán phụ nữ” cuối năm nay, cô đã được cứu thoát. Nhưng lúc đó cô đã có mang 6 tháng.

Cuối năm, cô Khâu Khánh Trang, một sinh viên giỏi của Đại học Bắc Kinh, trên đường từ Bắc Kinh đến phân hiệu của trường tại huyện Xương Bình, chẳng may bị một bọn côn đồ hãm hiếp cho đến chết. Vụ án này làm chấn động cả Trung Quốc. Thật bi thảm!

Vì vậy, chúng tôi luôn nhắc nhở Đình Nhi: “Tai hoạ sẽ ập xuống đầu mình bất cứ lúc nào, nếu không biết cảnh giác giữ mình”. Để tránh cho Đình Nhi những điều bất hạnh như trên, ngay từ nhỏ, chúng tôi đã dạy cho Đình Nhi các cách tự bảo vệ mình.

Khi cháu còn đang học ở trường mẫu giáo, chúng tôi đã dặn: “Mẹ không bao giờ nhờ bất cứ ai từ trường mẫu giáo về. Vì vậy, ngoài mẹ ra, bất cứ ai đến đón không được đi theo”. Nhiều lần tập thử để tạo cho cháu một thói quen biết đề phòng.

Ngay từ khi học lớp 2 bậc tiểu học, Đình Nhi đã phải một mình đo học bằng ô-tô buýt, mỗi tuần 6 ngày, mỗi ngày 4 lượt đi về, bất kể trời mưa hay nắng. Để nâng cao tinh thần cảnh giác cho cháu, chúng tôi cũng thường kể cho cháu nghe những chuyện lừa gạt phụ nữ đăng trên báo hàng ngày, phân tích kỹ những thủ đoạn lừa bịp của bọn côn đồ, và cả những yếu điểm mà phụ nữ dễ sa vào cạm bẫy.

Chúng tôi đã tổng kết cho cháu thành hai điều ngắn gọn: một là không đi vào những nơi cảm thấy không an toàn; hai là quyết không được “tham mồi bắt bóng”. Thường xuyên nhắc nhở Đình Nhi để cháu có được thói quen cảnh giác, biết tránh xa mọi sự cám dỗ, biết phân biệt đâu là lời khen thực lòng, đâu chỉ là những lời đường mật đầy dụng ý. Khi còn đang học lớp 4 bậc tiểu học, có lần Đình Nhi và một bạn trong lớp đi chơi bên bờ sông Cẩm Giàng, Đình Nhi đã rất cảnh giác tránh được sự theo đuổi của một gã thanh niên có ý đồ đen tối.

Khi Đình Nhi học tiểu học, vì vợ chồng tôi đều bận công tác, nên các buổi trưa Đình Nhi thường về nhà một mình. Để đề phòng mọi bất trắc, chúng tôi đã quy định với cháu: “Khi con ở nhà một mình, không được mở cửa cho bất cứ ai vào nhà”. Điều này xem ra có vẻ hơi quá, nhưng lại rất quan trọng.

Đến khi cháu vào lớp sơ trung, dáng người đã ngày một lớn không khác gì một cô gái lớn. Lúc này, vấn đề an toàn cho cháu càng phải chú trọng. Ngoài việc đề phòng tai nạn giao thông và bị bắt cóc, còn phải đề phòng mọi sự lừa gạt hãm hại của cánh con trai. Ngay từ lúc Đình Nhi mới 3 tuổi, mẹ đã tiến hành giáo dục giới tính cho Đình Nhi, nên cháu tiếp thu rất nhanh những lời mẹ răn bảo.

Lần đầu tiên nghe Đình Nhi hỏi: “Trẻ con sinh ra như thế nào?” hoặc “Việc làm thiếu đạo đức là gì?”, mẹ trả lời Đình Nhi theo cách các chuyên gia giáo dục từ sớm. Các chuyên gia này cho rằng, nói với con cái những thường thức khoa học ngày càng sớm, càng căng thẳng bao nhiêu thì những kích thích đối với tâm lý con cái càng ít bấy nhiêu. Mỗi lần nói chuyện này với Đình Nhi, mẹ đều nhắc nhở: những chuyện như thế này con chỉ được hỏi mẹ thôi, không được nói với người khác, nếu không người ta sẽ bảo con là xấu tính đấy. Quan niệm của mọi người về vấn đề này tuy chưa đúng, nhưng thành thói quen khó sửa. Tuy vậy, mẹ vẫn vui vẻ trả lời con bất cứ vấn đề gì.

Những quy định này có tác dụng rất tốt, Đình Nhi thoải mái và tự tin trong việc tìm hiểu những điều cần biết về giới tính; thứ hai, Đình Nhi đã quen với việc nói chuyện cùng mẹ về tất cả những việc liên quan đến giới tính. Hễ có thắc mắc gì lại hỏi mẹ, và không có ai nói chuyện này với Đình Nhi sâu sắc và tỉ mỉ được như mẹ. Như vậy, về mặt tri thức giới tính, Đình Nhi có thể tránh bị người khác dẫn dắt vào con đường nguy hiểm.

Là một người cha, nhiệm vụ của tôi là phải để cho Đình Nhi hiểu được những đặc điểm tâm lý nam giới. Tôi đã dùng rất nhiều ví dụ thực tế để giảng cho cháu hiểu được rằng, để tránh xa mọi sự hiểu lầm và phiền phức không cần thiết, con phải luôn chú ý giữ một cự ly thích hợp với tất cả mọi bạn trai.

Điều này, đã làm tăng hệ số an toàn cho Đình Nhi một cách hữu hiệu. Ai cũng biết an toàn là tiền đề và là cơ sở của tất cả mọi chuyện làm khác.

CHA MẸ CHỦ ĐỘNG ĐIỀU CHỈNH PHƯƠNG PHÁP

TĂNG CƯỜNG HƠN MỐI LIÊN HỆ VỚI CON

Có thể ai đó sẽ nói: “Tôi cũng thường giảng giải cho con những lý lẽ mà anh chị thường nói, song chẳng hiểu sao, con tôi không chịu nghe lời, cháu luôn cãi lại”. “Con các bạn vẫn làm như thế!” Đúng vậy, sự phản ứng ấy là chuyện rất bình thường ở những đứa trẻ đang tuổi dậy thì.

Tại sao những lời nói “thuốc đắng dã tật” của chúng tôi, Đình Nhi lại luôn nghe theo. Vì chúng tôi luôn biết chủ động thay đổi phương pháp giáo dục sao cho thích hợp với đặc điểm tâm sinh lý của cháu đang trong lứa tuổi dậy thì.

Trao đổi mọi vấn đề với con trên tinh thần bình đẳng.

Để làm dịu đi tâm lý luôn thích cãi lại của trẻ con trong thời kỳ chống đối, cha mẹ cần phải không được giáo dục theo kiểu mệnh lệnh. Phương pháp này đối với bậc tiểu học cũng đã bị coi là lỗi thời. Đối với con cái, cha mẹ luôn có thái độ bình đẳng, không phải là bình đẳng trên lời nói, mà là bằng hành động và suy nghĩ.

Nói chuyện với con như đang nói chuyện với một đồng nghiệp của mình.

Để đảm bảo được sự bình đẳng, chúng tôi thường coi Đình Nhi như một bạn đồng nghiệp của mình, thẳng thắn trao đổi mọi công việc. Như vậy, sẽ không phải né tránh một điều gì, và cũng không phải luôn đắn đo tìm cơ hội…

Đòi hỏi con nói chuyện với bố mẹ như nói chuyện với các thầy cô giáo ở trong trường

Làm thế nào để con cái khi đã là một học sinh trung học vẫn luôn biết coi trọng ý kiến của bố mẹ? Đây cũng là một yếu tố quan trọng để giữ được mối liên hệ thường xuyên với con cái. Chúng tôi giáo dục Đình Nhi phải coi cha mẹ như cô chủ nhiệm ở trường. Bởi vì những học sinh trung học thường không quan tâm lắm đến việc làm mất lòng cha mẹ hay không, nhưng chúng lại rất sợ làm mất lòng thầy cô giáo. Chúng không bao giờ dám ngang nhiên cãi bướng hoặc tỏ một thái độ bất kính nào đối với các thầy cô giáo. Vì vậy, những sự bất hoà trong gia đình hầu như không có. Trao đổi chuyện trò giữa chúng tôi và Đình Nhi vì thế mà có hiệu quả, thoải mái.

Kiên trì chờ đợi “Người đồng nghiệp” của mình trở thành người bạn tri kỷ

Sau khi con cái đã làm quen với việc trao đổi cùng cha mẹ mọi công việc theo kiểu người lớn, tất tình yêu thương của cha mẹ không còn là một thứ quyền lực có tính áp đặt nữa, mà trái lại chúng sẽ nhận ra rằng tình thân thiện mới thực là đáng quý, và khi ấy quan hệ theo kiểu đồng nghiệp rất tự nhiên sẽ chuyển sang quan hệ theo kiểu bạn bè. Nhất là khi các cháu đang gặp phải vấn đề gay cấn, các cháu sẽ hoàn toàn tin tưởng kể cho “bạn” nghe và cầu xin lời chỉ bảo của bạn. Hiện nay, tuy Đình Nhi đã theo học tại trường Harvard, nhưng cháu vẫn giữ được thói quen thường xuyên trao đổi mọi việc với chúng tôi, bình đẳng như bạn bè. Một khi con cái và cha mẹ đã hình thành được thói quen trao đổi công việc với nhau bình đẳng như bạn bè, đương nhiên cả hai đều thấy được rằng đó là một điều thật hạnh phúc.

Buông lỏng từng phần, “nắm chính bỏ phụ”, từng bước “trao quyền tự chủ” cho con

Ở tuổi thanh niên, ai cũng thích được tự lập, ai cũng thích được giải phóng khỏi vòng tay cha mẹ, làm việc gì cũng muốn tự mình, không muốn người khác can thiệp vào. Nếu hiểu được tâm lý chung là như vậy, tất cha mẹ đối với con cái cũng biết “buông lỏng từng phần”. Cách làm của chúng tôi là, những công việc nào mà Đình Nhi có thể đảm bảo làm được, hãy để cho cháu tự làm. Như chuyện mặc quần áo hàng ngày, trước đây do mẹ lựa chọn và mặc cho, như ngày nào thì mặc quần áo nào, đi giày dép nào… Bây giờ do Đình Nhi tự quyết định, nhưng bắt buộc phải theo đúng nguyên tắc của mẹ: “Không lố lăng loè loẹt, đủ ấm đề phòng bị ốm”. Làm như vậy, nhằm bồi dưỡng khả năng tự lo những chuyện trong cuộc sống của mình, hơn nữa còn giảm bớt được những sự va chạm không cần thiết. Khi gặp một vấn đề phạm phải nguyên tắc nên vừa phải xem lại nguyên tắc, vừa phải tìm biện pháp giải quyết. Biện pháp linh hoạt nhiều khi còn quan trọng hơn những nguyên tắc cứng nhắc. Bởi vì biện pháp sai sẽ làm tổn thương đến tình cảm, lúc bấy giờ, nguyên tắc có đúng mấy cũng chẳng có tác dụng gì. Thế nhưng quyết không thể vì để giữ tình cảm mà nhượng bộ cho những sai lầm của con cái trong những vấn đề có tính nguyên tắc quan trọng, hậu quả của những sai lầm đó sẽ không bao giờ bù đắp được.

6. Thừa nhận có sự cách biệt giữa hai thế hệ, lấy cái giống nhau làm chính, sự khác biệt chỉ là phụ, cùng tôn trọng nhau.

Chúng tôi thường tự nhắc nhở mình, tuổi thanh niên thường ham thích điều mới lạ, nhất là những cái màcha mẹ chúng không thích. Nếu bạn không muốn làm con cái bạn bực mình, tốt nhất không nên tỏ vẻ xem thường những cái mới lạ mà con bạn đang thích. Ngay cả những sự việc bạn muốn ngăn cấm, trước tiên bạn hãy cố hiểu về nó đã, sau khi bạn đã thực sự nắm được lý lẽ để phản bác rồi hãy nói. Có nhiều điều có thể nói hết được với bạn bè, nhưng với cha mẹ, một nửa lời cũng không muốn nói, đó là căn bệnh chung của tuổi thanh niên. Một trong những nguyên nhân của căn bệnh đó là không có chung sự hứng thú với cha mẹ. Trong những trường hợp như thế, tốt nhất là để cho con cái coi mình như một người bạn lớn tuổi, có điều gì cũng muốn thổ lộ, và phải biết chia sẻ niềm hứng thú với con, hơn nữa bằng sự từng trải của mình, bạn hãy để cho con bạn thấy rằng, tâm sự với mẹ còn có ích hơn nhiều so với bạn bè. Để Đình Nhi có thể thoải mái nói đủ mọi chuyện với chúng tôi, nhiều khi chúng tôi đã phải dùng đến biện pháp “đường vòng”. Đình Nhi thích hát những bài tình ca giậm dật, mẹ buộc lòng cũng phải học hát theo, Đình Nhi thích hát những bản nhạc mới “chát bùm” ầm ĩ, mẹ cũng phải ngồi nghe cùng Đình Nhi, sau đó mẹ lựa lời phân tích chỉ ra những chỗ hay chỗ dở của những cái mới lạ này, Đình Nhi đã hiểu ra mà nghe theo ý mẹ.

Phải kiên quyết thuyết phục, không được nóng nảy vội vàng.

Đối với con cái ở lứa tuổi mới lớn, mắc sai sót gì ta không nên vội chê trách nặng lời, phải biết trò chuyện và lắng nghe sự giải thích của con, phải biết kiên trì thuyết phục, chứ không nên “cưỡng bức chấp hành”. Nếu dùng quyền của cha mẹ để cưỡng bức, tất con cái sẽ “khẩu phục, tâm không phục, bằng mặt không bằng lòng, nói một đằng làm một nẻo”. Cho nên nếu sự việc không thật nghiêm trọng và cần kíp lắm, hãy cố gắng chờ đợi. Những yêu cầu của cha mẹ thực sự có lý, dần dần con cái tất cũng sẽ nhận thức ra và nghe theo.

Cũng có lúc phải biết tạm thời nhượng bộ, “Nhân vô thập toàn”, ngọc nào chả có vết. Có vậy mới giữ được mối quan hệ hài hoà, để tập trung giải quyết những vấn đề quan trọng hơn.

Nên răn đe từ trước, “phòng bệnh hơn chữa bệnh”.

Bất kể việc gì, không nên để sự việc xảy ra rồi mới yêu cầu con phải thế này, phải thế kia, bạn muốn con cái như thế nào, cần có sự răn đe khuyên bảo từ xa. Không nên chờ đợi đến khi sự việc xảy ra rồi, khi con mình đã đắm chìm trong sự say mê mù quáng, bấy giờ mới đao to búa lớn. Làm như vậy chỉ tổ “lửa đổ thêm dầu”, con càng lánh xa bạn. Những bậc cha mẹ biết nhìn xa trông rộng đều biết khôn khéo ngăn chặn ngay từ khi sự việc còn trong trứng nước.