Để bồi dưỡng con gái trở thành một con người tài năng, ngay từ đầu tôi đã ngầm hạ quyết tâm, phải bằng tất cả khả năng của mình cố gắng để ĐÌnh Nhi được tiếp cận một nền giáo dục tốt đẹp nhất. Thế nhưng, một người mẹ độc thân, không chức quyền, không tiền bạc như tôi, để cho con mình có được một nền giáo dục tốt đẹp nhất đâu phải là chuyện dễ.

Khi Đình Nhi tròn 6 tuổi, rất may, Sở Giáo dục thành phố Thành Đô đã sửa đổi lại quy định 7 tuổi mới được vào tiểu học nay thành 6 tuổi đã được nhận vào tiểu học. Điều đó đã giúp tôi trút bỏ được mỗi lo canh cánh bấy lâu nay là trong suốt cả một năm trời, Đình Nhi sẽ làm gì trong lứa tuổi từ 6 đến 7. Thế nhưng lại có những nguồn tin khác khiến tôi không thể yên tậm

Với hệ thống giáo dục thời bấy giờ, cha mẹ học sinh muốn xác định được chất lượng giáo dục của một nhà trường nào đó chỉ có thể căn cứ vào số lượng học sinh cử tuyển được vào học trong trường đó nhiều hay ít; mà số lượng này lại do cấp trên hạn đinh. Những trường tiểu học trọng điểm của thành phố có số lượng học sinh cử tuyển đông lại không gần nhà tôi, xét theo hộ khẩu thì Đình Nhi không thể vào những trường đó. Trừ phi tôi có thể giúp xưởng trường của những trường trọng điểm đó liên hệ được mối hàng có thể đem lại cho họ một vạn đồng tiền hỗ trợ giáo dục, thì ĐÌnh Nhi mới có thể được nhận vào các trường tiểu học có chất lượng giáo dục loại A đó. Thế nhưng đối với tôi, một nghìn đồng còn chẳng đào đâu ra được, nói gì đến một vạn. Nếu hoàn toàn chỉ xét theo hộ khẩu, Đình Nhi sẽ phải học một trong hai trường có chất lượng giáo dục kém nhất của Thành Đô. Hai trường tiểu học này, hàng năm chỉ có một hai học sinh được nhận vào học trong các trường trung học trọng điểm. Số còn lại phải theo học ở hai trường trung học có chất lượng kém nhất Thành Đô, mà những trường trung học này đã nhiều năm nay chưa có một học sinh nào thi đỗ đại học.

Một tiền đồ như vậy khiến ngưồi ta vô cùng lo lắng. Trong buổi liên hoan mừng cho khoá tốt nghiệp Nhà trẻ số 3, các thầy cô giáo đã yêu cầu tôi đại diện cho các bậc cha mẹ học sinh lên phát biểu. Khi ấy tôi đã nói rất hùng hồn rằng: "Được giáo dục tại Nhà trẻ số 3, một nhà trẻ có chất lượng giáo dục loại A này, đó là một điều vô cùng may mắn cho các cháu. Đáng tiếc là, đại đa số các cháu, kể cả cháu Đình Nhi nhà tôi, đều không thể tiếp tục qua tuổi niên thiếu ở một trường tiểu học có chất lượng giáo dục loại A..."

Để giành lấy một suất tại các trường tiểu học có chất lượng giáo dục tốt cho con mình, khi đó các bậc phụ huynh của các cháu vừa tốt nghiệp Nhà trẻ số 3 này đều phải trổ hết tài năng. Một người bạn tốt của Đình Nhi tên là Ương Ương (cái tên này sẽ xuất hiện nhiều lần trong nhật ký của Đình Nhi), gia đình ở sát Hội kiên hiệp văn nghệ tỉnh, cơ quan của cha bạn ấy đứng ra giới thiệu cho tất cả các bạn nhỏ đủ tuổi đi học tiểu học năm ấy được vào học tại Trường tiểu học Sở Thương nghiệp, một trường trọng điểm của khu Đông Thành. Trường tiểu học này tuy không bằng các trường tiểu học khác của thành phố, nhưng mỗi năm cũng có mười suất vào học tại các trường trung học trọng điểm. Những học sinh tốt nghiệp khác, cũng có cơ hội để vào học tại các trường trung học có chất lượng giáo dục loại B hoặc C. Lại một người bạn tốt khác của Đình Nhi, tên là Vương Ngọc (cái tên này cũng sẽ còn xuất hiện nhiều lần trong nhật ký của Đình Nhi), cha mẹ đều là công nhân, chỉ còn biết đi theo số phận. (Lúc ấy, cha mẹ Vương Ngọc quá thương con gái mình, đã cố gắng tìm ra được một giải pháp riêng. Đó là vẫn kiên trì cho con gái theo học lớp hội hoạ của cô Viên, lấy kết quả xuất sắc về mỹ thuật để bù đắp lại sự thiếu hụt trầm trọng về văn hoá trong trường tiểu học. Cuối cùng khiến con gái đi theo con đường mỹ thuât. Hôm vừa qua, ngày 26 tháng 4 năm 2000, có tin nói rằng: Trường trung học bán công thuộc học viện Mỹ thuật Tứ Xuyên đã đề cử Vương Ngọc vào học tại Học viện Mỹ thuật Tứ Xuyên. Vương Ngọc là một hình mẫu, từ trong khó khăn tìm ra lối thoát cho mình).

Tôi không muốn chịu theo số mệnh, nhưng cũng không có quyền cao chức trọng để có thể viết lá thư tay gửi đến các trường trọng điểm trong thành phố, đơn vị tôi cũng không có đủ tài và quyền lực để tiến cử các cháu đến tuổi vào học tại các trường trọng điểm của tiểu khu. Chính trong lúc cùng đường bí lối ấy, một đồng nghiệp của tôi, cùng với vợ anh đã ra tay cứu giúp. Hai vợ chồng anh ấy đã chủ động liên hệ cho hai cháu trong Ban biên tập chúng tôi được vào học tại một trường tiểu học mới được nâng cấp thành trường trọng điểm. Trường này so với trường tiểu học Sở Thương nghiệp xa hơn nhiều. Từ nhà tôi phải đi qua hai bến xe buýt, xuống xe còn phải đi một đoạn khá xa nữa mới đến... Nhưng, ưu điểm của trường này là, đất đai rộng rãi, không khí yên tĩnh hơn nhiều so với trường tiểu học Sở Thương nghiệp. Quan trọng hơn là, hàng năm vẫn có 10 suất vào họctại các trường trung học trọng điểm. Số lượng học sinh ở đây đông hơn rất nhiều so với trường tiểu học Sở thương nghiệp, mức độ cạnh tranh đương nhiên là sẽ gay gắt hơn. Thế nhưng, dẫu sao có cơ hội tốt hơn rất nhiều so với không có cơ hôi.

CHƯA VÀO TIỂU HỌC

ĐÃ CÓ MỤC TIÊU LỚN ĐANG CHỜ

 

Mặc dù, luôn coi trọng việc giáo dục đối với Đình Nhi, nhưng từ trước tới nay tôi chưa nghĩ cụ thể rằng, sau này ĐÌnh Nhi sẽ làm nghề gì. Tôi chỉ biết, mỗi khi kể cho Đình Nhi nghe các câu chuyện về các nhân vật kiệt xuất đông tây kim cổ, tôi đều có ý kkhen ngợi họ với thái độ vô cùng khâm phục: "Họ là những người có cống hiến cho xã hội loài người". Đồng thời tôi cũng khuyến khích Đình Nhi: lớn lên con cũng phải có những cống hiến cho xã hội loài người. Với sự truyền thụ và truyền cảm của tôi, ngày từ rất nhỏ, ĐÌnh Nhi đã biết mơ ước: "Lớn lên con cũng sẽ trở thành một người có cống hiến cho xã hội loài người".

Suốt thời gian đi liên hệ cho Đình Nhi vào học, tôi đều cố gắng mang Đình Nhi đi theo, chủ yếu là để cho cháu biết rằng, để thực hiện được ước mơ "lớn lên sẽ cống hiến cho xã hội loài người" thì trước tiên phải được tiếp nhận một sự giáo dục thật tốt. Thấy người lớn cũng phải lao tâm khổ tứ,chạy ngược chạy xuôi, vất vả đủ đường chỉ vì việc học của mình, Đình Nhi tuy còn rất nhỏ nhưng cũng đã cảm thấy, để được vào học tại một trường có sự giáo dục tốt, thật là quan trọng biết bao, và cũng thật gian khó biết bao.

Về tình cảm, Đình Nhi rất muốn vẫn được tiếp tục học cùng bạn Vương Ngọc. Tôi đã phải giải thích để cháu hiểu: trường mà bạn Vương Ngọc rồi đây sẽ học, mỗi năm chỉ có một, hai suất được vào học tại các trường trung học trọng điểm thôi. Các chỉ tiêu ấy rất dễ bị các bạn "học sinh ba tốt của tiểu khu" được cộng điểm chiếm mất. Đình Nhi nói: "Con sẽ phấn đấu để được là học sinh ba tốt". Tôi nói với cháu: "Con có quyết tâm như vậy là tốt lắm, nhưng tiêu chuẩn "ba tốt" cũng thật khó mà xác định, chúng ta chỉ có thể cạnh tranh công bằng về học tập mà thôi. Chúng ta không sợ cạnh tranh, mà chỉ sợ không có cơ hội để cạnh tranh. Mẹ chỉ cần làm sao khi tốt nghiệp con có tổng điểm đứng hàng thứ 3 trong toàn trường, thế thì trong chỉ tiêu 10 người kia thế nào cũng có tên con. Vì rằng, một nhà trường nhiều nhất cũng chỉ được công nhận hai, ba "học sinh ba tốt". Nhưng lại sợ rằng con đứng hàng thứ 8, thứ 9, một vài bạn được ưu tiên cộng điểm lập tức sẽ đẩy con ra ngoài. Nếu con không vào được các trường trung học trọng điểm, thì con làm sao có thể tiếp nhận được một sự giáo dục tốt nhất. Muốn có những cống hiến cho xã hội loài người, như ông Andersen (một nhân vật mà Đình Nhi luôn sũng bái), thì càng khó khăn biết bao".

Trong suốt cả quá trình trưởng thành của ĐÌnh Nhi sau này, những lời nói trên đã để lại cho cháu một ấn tượng vô cùng sâu sắc. Bởi vì, cái lý tưởng nhân sinh xa vời và phù phiếm của cháu, lần đầu tiên đã được giải thích thành một mục tiêu mang tính giai đoạn cụ thể là "Phải cố gắng để được xếp thứ 3 trong toàn điểm". Mục tiêu có tính chất giai đoạn đó luôn là động lực nội tại thúc đẩy Đình Nhi cố gắng học tập.

BỒI DƯỠNG THÓI QUEN GIAO TIẾP

MỞ RỘNG CỬA SỔ TÂM HỒN

 

Mỗi khi đến trường, ĐÌnh Nhi phải hai lần sang đường, và phải đi quâ một nga tư xe cộ luôn tấp nập. Cả năm lớp 1, mỗi ngày tôi phải hai lần đưa đón ĐÌnh Nhi tận cổng trường. Lúc bấy giờ, hạnh phúc nhất của tôi là được tận mắt thấy ĐÌnhNhi tung tăng hoa vào dòng các bạnnhỏ hớn hở tới trường, cảnh tượng đó thật có ý nghĩa.

Tôi luôn nghĩ rằng, vào tiểu học chính là bước đi đầu tiên trên chặng đường bước vào xã hội của con mình, cũng là bước đi đầu tiên xa rời mẹ. Lần đầu tiên Đình Nhi chia tay tôi bước vào trường, cũng chính giờ phút ấy, ĐÌnh Nhi bắt đầu phải một mình đối mặt với một thế giới mới lạ. Muốn trưởng thành một cách lành mạnh trong cái thế giới mà ánh sáng và bóng đêm luôn hiện hữu, hoa thơm và cỏ dại cùng sinh tồn ấy, chỉ dựa vào những điều đã học nhờ sự giáo dục từ sớm, từ lúc 0 đến 6 tuổi là hoàn toàn không được, nhất là với các cháu lớp một, lần đầu tiên bước vào xã hội. Tôi cũng cần phải hiểu thật cặn kẽ mọi việc của Đình Nhi, để có được những sự giúp đỡ thật hữu hiệu và đúng trọng tâm.

KHÓ KHĂN ĐẦU TIÊN:

BỊ CÁCH CHỨC QUYỀN LỚP TRƯỞNG

 

Đó là việc xảy ra sau khi vào học được vài ba tháng. Ở trường, đức tính nhanh nhẹn của ĐÌnh Nhi đã được cô giáo chủ nhiệm chú ý. Vào học được mấy hôm, cô chủ nhiệm cho Đình Nhi làm quyền lớp trưởng (lớp trưởng chính thức sẽ được quyết định sau khi vào học 2 tháng). Mới vào trường mà đã được coi trọng như vậy, mẹ con tôi rất vui mừng, nhưng chỉ ít lâu sau, Đình Nhi làm mất lòng cô chủ nhiệm vì một chuyện không ngờ. Đó là vào tiết dạy ngữ văn, cô chủ nhiệm hướng dẫn học sinh đánh vần "đi". Theo cách mới phải đọc là "đờ-i-đi", nhưng cô lại đọc là "đê-i-đi". Vốn có thói quen ở nhà là thấy sai phải sửa ngay, ĐÌnh Nhi lập tức giơ ta lên phát biểu. Trước cả lớp, cháu đã chỉ ra cách đánh vần sai của cô chủ nhiệm, cô tỏ ra bực và vẫn khẳng định cô đọc đúng. Đình Nhi cứ muốn tiếp tục tranh luận, nhưng cô bảo ngồi xuống. Cô cho là ĐÌnh Nhi tự cao tự mãn, đã cách chức quyền lớp trưởng của Đình Nhi.

Đình Nhi rất ấm ức. Tan học trở về nhà, cháu đã nói lại chuyện đó với tôi. Trước tiên, tôi khẳng định cách đánh vần của cháu là đúng, sau đó tôi nói với cháu: "Chỉ ra cách phát âm sai của cô chủ nhiệm tuy không phải là việc làm sai, nhưng không nên làm việc đó trước mặt cả lớp. Thứ nhất là, ngay lúc bấy giờ chưa chắc cô giáo đã nhận ra cái sai của mình, chỉ thấy con chơi trội, làm mất thể diện của cô. Cách làm đó khó làm cho cô thay đổi được, con chỉ có thể thay đổi cách làm của mình, cốt sao có hiệu quả thật tốt. Ví như, sau khi tan lớp, tự con đến gặp cô chủ nhiệm, khiêm tốn xin cô chỉ bảo lại, rồi nhân đó đưa ra ý kiến của mình, nếu vậy thì sự việc đâu đến nỗi thế này".

Suy nghĩ một lát Đình Nhi nói: "Con nghĩ không được mẹ ạ, ít nhất cô giáo không nên giận dữ về điều đó. Bởi vì, việc làm của con đâu có làm mất thể diện của cô". ĐÌnh Nhi lại hỏi: "Vậy thì tại sao cô giáo sai có thể không phải sứa, còn con sai thì bắt con phải sửa ngay?" Tôi bật cười: "Con không sửa thì đến lúc thi con sẽ mất điểm, liệu con có sửa không?". Đình Nhi cũng cười và nói: "Phải sửa chứ, mẹ!" Nhân cơ hội đó, tôi bảo cháu: "Nếu cô giáo có vấn đề gì, lãnh đạo nhà trường phải có trách nhiệm giáo dục. Lần sau gặp những trường hợp như vậy, tốt nhất con nên về nói với mẹ biết đã. Còn về cái chức quyền lớp trưởng, coi như là việc đã rồi. Con nên nhớ lấy bài học ấy, một thất bại như vậy có thể sẽ tạo ra được nhiều sự thành công sau này". Câu chuyện của tôi từ sự mâu thuẫn thầy trò liền chuyển sang một vấn đề khác có tính triết học: "Tại sao từ một việc thất bại lại có thể tạo ra được những thành công và từ một thành công lại là tiền đề cho một thất bại?..." Tôi giảng giải hồi lâu, Đình Nhi lắng nghe, dường như mọi nỗi oan ức vừa rồi đều tan biến cả. Thế là xoá tan được cơn khủng hoảng trong tâm lý của ĐÌnh Nhi.

Những mâu thuẫn giữa thầy và trò kiểu Đình Nhi vừa rồi, nếu không có sự giúp đỡ của các bậc cha mẹ, rất dễ để lại những vết thương lòng cho trẻ, nhẹ cũng gây nên một sự lẫn lộn trong quan niệm phải trái, mà nặng có thể tạo ra được một tâm lý luôn chống đối trong lòng trẻ. Nếu không giải quyết kịp thời, sau này sẽ vô cùng khó khăn. Với phương châm "phòng bệnh hơn chữa bệnh", phải nhanh chóng giải quyết kịp thời.

Chừng một năm sau, ĐÌnh Nhi lại gặp phải một vấn đề tương tự, lần này cháu đã chín chắn hơn rất nhiều.

Hôm qua thầy giảng bài thơ: "Buổi sớm mùa xuân". Thầy nói: "Tác giả bài này là Mạnh Hạo Nhiên, một nhà thơ đời Đường". Thế nhưng tôi (ĐÌnh Nhi) lại nghe nhầm thành đời Tống. Về đến nhà tôi vội hỏi mẹ: "mẹ oi, Mạnh Hạo Nhiên là nhà thơ đời nào mẹ nhỉ?" mẹ nói: "Đời Đường, con ạ!" Thế thì thầy giáo giảng sai rồi, thầy nói là đời Tống". mẹ bảo: "Không có thể, nhất định là con đã nghe nhầm rồi". May quá, không phải như lần trước, tôi đã không đứng lên tranh luận với thầy ngay tại lớp.

 

 

BIẾT CHỊU ĐỰNG NHỮNG LỜI GIÈM PHA VÀ GIỄU CỢT,

RÈN LUYỆN KHẢ NĂNG THÍCH ỨNG

 

Từ sau vụ tranh luận với cô giáo về cách đánh vần ở trên lớp, thái độ của cô giáo chủ nhiệm đối với Đình Nhi rõ ràng không được như trước. Ở trên lớp, Đình Nhi vẫn tích cực giơ tay phát biểu, nhưng cô giáo rất ít khi gọi cháu. Nhiều khi cả lớp không ai trả lời được Đình Nhi đã xung phong đứng lên trả lời. Đã không khen, cô lại còn giễu Đình Nhi là "thích yêng hùng" (tiếng Thành đô có nghĩa là thích chơi trội, hoặc "chỉ mình em là yêng hùng nhất"). Cứ nhiều lần như vậy, tính tích cực trong học tập của Đình Nhi đã giảm sút đi nhiều, cháu bắt đầu không hứng thú lắm với tiết học ngữ văn.

Tôi không đem chuyện này trao đổi với cô giáo, mà chỉ đơn phương yêu cầu ĐÌnh Nhi phải điều chỉnh lại thái độ và hành vi của mình, mong muốn qua việc này bồi dưỡng khả năng thích ứng của cháu.

Buổi trưa hôm đó, trong bữa cơm, ĐÌnh Nhi đã nói với tôi: "Từ nay về sau, giờ ngữ văn con không thèm phát biểu nữa đâu". Tôi hỏi cháu: "Tại sao?". Cháu kể lại những sự việc trên lớp cho tôi nghe. Thực lòng, tôi rất không tán thành cách làm của cô giáo, nhưng để giữ uy tín cho các thầy cô, tôi đã đứng về phía cô giáo giải thích cho cách làm đó. Tôi nói với Đình Nhi: "Cô giáo không gọi con, vì cô biết rằng con đã hiểu bài, vì vậy cô chỉ gọi những bạn chưa hiểu bài, hoặc không tập trung chú ý nghe giảng đứng lên trả lời câu hỏi. Đây là biện pháp để nhắc nhở học sinh phải tạp trung chú ý nghe giảng. Con tranh mất phần phát biểu của các bạn, cô giáo sẽ không kiểm tra được ai là người đã hiểu bài..."

"Vì vậy, cô mới phê bình con..." ĐÌnh Nhi đã hiểu ra, vội tiếp lời tôi: "Vậy theo mẹ, sau này con có nên giơ tay phát biểu nữa không?" Tôi hỏi lại cháu: "Theo con nên thế nào?" Suy nghĩ một lát, Đình Nhi nói: "Nếu là câu hỏi đơn giản, các bạn đều đua nhau trả lời, thì thôi, con không giơ tay nữa. Nếu là câu hỏi khó, các bạn đều không trả lời được, mà con biết trả lời thì con sẽ giơ tay xin phát biểu. Mẹ thấy thế nào?" Đương nhiên là tôi thấy tốt quá rồi, tôi còn bổ sung thêm: "Câu hỏi đơn giản con cũng cứ giơ tay, nhưng không cần quan tâm đến việc thầy cô giáo có gọi mình hay không, chỉ cần để các thầy cô biết rằng mình đã hiểu bài thế là được". ĐÌnh Nhi rất hài lòng với cách giải quyết ấy. Cách sửa chữa thái độ của ĐÌnh Nhi cộng với việc Đình Nhi luôn trả lời tốt các câu hỏi khó, nên cô giáo chủ nhiệm đã thay đổi thái độ với ĐÌnh Nhi.

Tôi thường nói với ĐÌnh Nhi rằng, người Thành Đô có một câu nói rất hay: "Người khôn ngoan biết trách mình, người không khôn ngoan chỉ biết oán trách người khác". Những người hễ gặp trắc trở gì chỉ biết trách người khác, trách hoàn cảnh, thì chỉ biết chờ đợi môt cáh tiêu cực sự thay đổi của người khác, mà chính mình lại không có khả năng làm người khác thay đổi. Thế là mọi khó khăn ngày càng chồng chất không được giải quyết, kẻ thiệt thòi nhất là chính mình. Một người có chí tiến thủ tích cực, luôn biết chủ động tìm ra biện pháp giải quyết vấn đề, chứ không một mực truy cứu trách nhiệm của người khác.

Trong thời gian học tiểu học, Đình Nhi thường lúng túng trước những sự việc tương tự như vậy, đã nhiều lần nước mắt lưng tròng cháu tự hỏi: "Phải làm thế nào đây?" Nhưng qua nhiều năm thử thách và rèn luyện, tới khi cháu vào học trung học, ở cháu đã hình thành được một nguyên tắc cho mọi hành vi của mình là "phải biết tự điều chỉnh mình là chính". Trong khi thảo luận các vấn đề, Đình Nhi đã biết nói được câu: "đây không phải vấn đề mà chúng ta có thể thay đổi được, thì chúng ta phải biết làm gì chứ..."

Ngoài khả năng thích ứng với các mối quan hệ xã hội, khả năng thích ứng với hoàn cảnh vật chất cũng vô cùng quan trọng. Ngay từ nhỏ, Đình Nhi cũng đã rèn luyện để có được khả năng này.

Khi ĐÌnh Nhi còn đang học lớp một, tại một ngôi lầu của một đơn vị khác chỉ cách cửa sổ nhà chúng tôi chừng 5 mét, có một cặp thanh niên vừa chuyển đến rất mê hát karaoke. Hai thanh niên cứ sau bữa cơm tối lại hát đến tận khuya, loa mở rất to, giọng hát lại không đúng nhạc, những ngày cuồi tuần lại lôi kéo bạn bè hát đến tận nửa đêm. Bà con hàng xóm nhắc nhở, có người còn chửi bới, họ cũng không thèm để ý tới. Đình Nhi thường bj những tiếng gào thét ấy làm cho tâm trí rối loạn, không thể tập trung học bài.

Mối lần ĐÌnh Nhi kêu ca phàn nàn với tôi về chuyện này, tôi thường ôn tồn nói với con: "Chúng ta đã không có cách nào làm cho họ ngừng hát, thì chúng ta phải tìm cách thích ứng với tình trạng này thôi. Nhân dịp này, con hãy luyện tập khả năng chống lại sự quấy nhiễu. Con nên học tập Mao Chủ tịch thời trẻ đã thường xuyên đến chợ rau quả ngồi đọc sách chỉ cốt rèn luyện khả năng chống lại sự quấy nhiễu. Con nên học tập Mao chủ tịch, luyện tập khả năng tập trung tư tưởng trong điều kiện ồn ào náo nhiệt".

Thực ra, tôi rất ghét những hành động vô ý thức như vậy, nhưng tôi luôn phải tự nhắc mình, không để lộ thái độ căm ghét đó trước mặt Đình Nhi, cốt là để tăng cường lòng tin đối với việc rèn luyện khả năng chống lại sự quấy nhiễu của cháu. Đồng thời cũng yêu cầu cháu không kêu ca phàn nàn gì nữa, đừng để mẹ phải phiền lòng. Tôi bảo ĐÌnh Nhi: "Con phải luôn tự nhắc nhở mình: "Các người hãy cứ hát đi, ta vẫn tập trung tư tưởng học như thường đấy!" Cứ như vậy cho đến lúc tư tưởng hoàn toàn tập trung". Ngay từ khi Đình Nhi mới 6 tuổi, cháu đã bắt đầu biết sử dụng phương pháp tích cực đó để điều chỉnh tâm lý, kìm nén tình cảm. Điều này đã có tác dụng tốt đối với việc tăng cường khả năng chịu đựng về tâm lý của cháu.

Có không ít bậc cha mẹ chỉ coi trọng đầu tư chất xám và rèn luyện kỹ năng cho con mình, họ rất ít chú ý đến khả năng thích ứng của con. Thực ra, đối với sự phát triển của con cái sau này, khả năng thích ứng có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Bởi vì, khả năng thích ứng với môi trường sống của một con người như thế nào, nó có thể quyết định đến khả năng phát huy tài năng và trí lực của người đó. Cùng với sự trưởng thành về tuổi tác, sự phong phú về tri thức, khả năng thích ứng đó càng thể hiện rõ ràng. Một con người có khả năng thích ứng về sinh lý quá kém đến một nơi khác lạ thì dễ thường bị kém ăn, mất ngủ, làm sao có thể ohát huy được tài năng một cách bình thường. Có những người tài năng có thừa, nhưng rơi vào hoàn cảnh khó khăn rắc rối về quan hệ xã hội, cả một đời chẳng làm đươc việc gì nên hồn, một trong những nguyên nhân là họ đã thiếu đi một khả năng thích ứng với xã hội.

Điều đáng mừng là, khả năng thích ứng của Đình Nhi rất tốt, cho đến nay, cháu luôn nhanh chóng thích ứng được với hoàn cảnh, luôn giữ được trạng thái tâm lý bình thường, phát huy khả năng vốn có của mình.

Đối với một đứa trẻ trí lực bình thường, thì bài vở của năm lớp 1 không có gì khó khăn lắm, cái khó là ngay từ đầu đã hình thành một thói quen học tập tốt. Rất may là, trước khi Đình Nhi đi học, tôi đã mua một quyển sách rất hay, cuốn "Pương pháp dạy con chăm chỉ học hành". Cuốn sách này đã giúp tôi học được cách làm thế nào để cho con có được những thói quen học tập tốt. Chỉ tiếc rằng, năm 1999, khi chuyển nhà đến nơi ở mới, tôi đã đánh mất quyển sách ấy. Ngày mồng 1 tháng 5 năm nay, tôi đã cố ý đi vòng lại cửa hàng sách Tân Hoa xem có loại sách nào tương tự như vậy, có thể giúp tôi nhớ lại những phương pháp đó không. Tiếc rằng trong cửa hàng, các loại sách hướng dẫn học sinh làm bài chọn đáp án chất đầy như núi, thế mà tìm không ra lấy một quyển hướng dẫn cha mẹ bồi dưỡng cho con một thói quen học tập tốt. Tôi chỉ có thể viết ra đây một vài phương pháp bồi dưỡng thói quen học tập cho con, theo trí nhớ của mình:

1. Thói quen tôn trọng thời gian học tập:

Căn cứ vào đặc điểm sinh lý của trẻ con, mỗi thời đoạn học tập của chúng chỉ nên quy định là 20 phút. Trước khi vào học, tôi luôn nhắc nhở Đình Nhi phải làm tốt mọi công việc chuẩn bị, như gọt bút chì, tìm sách vở, uống nước và đi tiểu... Khi bắt đầu học tập, phải hết sức tập trung, không được rời khỏi bàn học, không được làm các công việc khác, người lớn không được làm ồn hay làm mất trật tự, có việc gì phải đợi con học xong hãy nói. Người lớn tôn trọng thời gian học tập của con cái rất có lợi cho việc bồi dưỡng cho con được một quan niệm "thời gian học tập là thiêng liêng, là bất khả xâm phạm".

Cha của Witer, một thần đồng người Đức, đã bồi dưỡng cho con một thói quen tôn trọng thời gian học tập, chính bằng phương pháp đó. Khi Witer con đang học, dù có khách đến chơi, "Witer đang học, xin ông đợi cho một chút!"

Đình Nhi đã nhanh chóng học tập được thói quen, khi học không làm việc khác. Khi cháu đang học lớp hai, có một hôm mẹ vắng nhà, bỗng nhiên có khách đến chơi. Đứng trên lan can gác 2 nhìn xuống, cháu nhận ra đó là bạn của mẹ, cháu vội xuống mở cửa mời khách vào nhà. Cháu trịnh trọng pha hai cốc nước chanh mời hai mẹ con bà khách uống... Ngồi chơi một lát, ĐÌnh Nhi thấy đã đến thời gian viết nhật ký trong ngày, cháu liền mời bà mẹ đọc sách và đưa bộ đồ chơi lắp ghép xây dựng cho bạn nhỏ chơi. Còn cháu xin phép ngồi vào bàn viết nhật ký. Trong nhật ký hôm ấy cháu viết về sự kiện mới xảy ra trong gia đình: "Nhà có khách".

2. Thói quen nghỉ ngơi tích cực

Hết 20 phút học tập, cho trẻ nghỉ 5 phút. Nghỉ qúa 5 phút, sẽ không có lợi cho việc lấy lại sự tập trung chú ý cho việc học tập ở tiết tiếp theo, nghỉ chưa đủ 5 phút cũng không có lợi cho việc giải toả sự mệt mỏi của đầu óc và thị lực. Giờ nghỉ, trẻ con phải rời khỏi bàn học, làm một vài động tác thể dục nhẹ nhàng, hoặc làm những việc vặt mà thời gian học tập không được làm. Không nên cho trẻ con lười biếng ngồi lỳ một chỗ hoặc nằm, để tránh ảnh hưởng đến trạng thái tinh thần khi học tập.

Đình Nhi đã sớm có được khái niệm nghỉ ngơi là hoạt động. Tôi thường dạy ĐÌnh Nhi phải biết "kết hợp động tĩnh" cho phù hợp trong quá trình học tập. Đình Nhi thường không tranh thủ làm bài tập trong 10 phút ra chơi, cháu thường tìm cách để rèn luyện thân thể. Biện pháp đơn giản nhất là lên thang gác, chạy từ tầng 1 đến tầng 3. Thói quen này đã giúp cháu biết tranh thủ thời gian để rèn luyện thân thể ngay trong những giờ phút học hành vất vả nhất. Khi vào học trong trường trung học trọng điểm, thi chạy dài 800 mét đối với ĐÌnh Nhi là chuyện bình thưởng. Đến năm thứ 3 bậc cao trung, ĐÌnh Nhi đã giành được danh hiệu quán quân môn chạy cự ly 400 mét nữ trong Đại hội thể dục thể thao toàn trường, chỉ thiếu chút nữa là đã lập được một kỷ lục mới cho nhà trường.

3. Thói quen độc lập làm bài

Thứ nhất là để ĐÌnh Nhi tự mình nắm lấy thời gian. Tôi yêu cầu cháu mỗi lần ngồi vào bàn học phải đặt đồng hồ báo thức ở trên bàn, phải sắp sẵn lịch học: mấy giờ bắt đầu học, mấy giờ bắt đầu nghỉ, và phải viết rõ ràng trên giấy, tự giác làm việc theo đúng lịch đó. Tôi nói rõ với Đình Nhi: "Việc học là việc của con, con phải biết tự giác học cho thật tốt, mẹ chỉ đôn đốc con bằng cách kiểm tra đột xuất thôi". Làm như vậy cốt là để bồi dưỡng tính tự giác trong học tập của Đình Nhi.

Thứ hai là, để cho Đình Nhi tập nghe bằng cách nghe băng. Việc làm này rất có lợi, trước tiên là bé tự ghi nội dung học tập vào băng đó cũng là một lần tập trung ôn tập. Thêm nữa, động tác đõng mở máy ghi âm làm cho bé tự tin cảm thấy mình cũng rất giỏi, có thể kích thích sự hứng thú trong khi viết. Cuối cùng là, dùng một thứ đồ điện trong gia đình làm đồ dùng học tập làm cho bé cảm thấy việc học tập của mình đâu phải là trò chơi. Ngoài ra, sau khi đã ghi xong nội dung học tập vào băng, bé có thể trao lại sách đó cho cha mẹ cất giữ, việc làm này cho bé cảm thấy cha mẹ luôn tôn trọng tính trung thực của mình.

 

4. Thói quen sử dụng các loại sách công cụ đáng tin cậy

Bắt đầu từ năm lớp 1, tôi đã để cho ĐÌnh Nhi sử dụng các loại sách công cụ chính quy, chủ yếu là "Từ điển Tân hoa", "Từ điển Hán ngữ hiện đại", có lúc cũng sử dụng những từ điển có liên quan, trong bộ đại từ điển "Từ hải". Gặp chữ mới, từ mới, tôi không bao giờ đưa ra đáp áp sẵn cho Đình Nhi, mà yêu cầu cháu trước tiên phải tra cứu sách công cụ, ngay từ đầu đã tìm được

những lừi giải thích chuẩn xác để tránh cho cháu phải lưu lại trong đầu một ấn tượng mập mờ. Ở những năm học đầu, khi tra từ điển, tôi để cháu tự tìm ra mặt chữ, còn phầm giải thích tôi với cháu cùng xem. Sau này, mọi công việc cháu đều tự làm lấy rồi nói lại cho tôi nghe, qua việc nói lại tức thì ấy cốt để khắc sâu ấn tượng cho cháu. Thói quen này không chỉ nhằm bồi dưỡng cho Đình Nhi một tác phong học tập thận trọng nghiêm túc, mà còn tạo ra một thói quen cho Đình Nhi, lựa chọn các tư liệu hướng dẫn học tập phải chọn theo tiêu chuẩn "ít mà tinh".

5. Thói quen dám nhìn thẳng vào sai lầm

Theo cách làm của cuốn "Phương pháp dạy con chăm chỉ học", tôi không cho Đình Nhi dùng hòn tẩy để tẩy xoá đi những chỗ sai, mà phải dùng bút khác màu khoanh tròn lại, để mỗi lần nhìn thấy nó sẽ nhắc nhở mình: chỗ này dễ sai đây. Như vậy sẽ giảm thiểu được số lần mắc lại lỗi sai. Ngoài ra, tôi còn cho cháu đóng riêng một quyển  "Vở sửa sai", ghi vào đó những lỗi sai thường gặp và những đáp án đúng. Thường xuyên ôn tập để củng cố hiệu quả của việc sửa sai. Trước khi thi toán, tôi yêu cầu Đình Nhi đem tất cả những bài kiểm tra và bài tập ở nhà của môn toán ra xem lại, làm lại những đề làm sai, cốt cho Đình Nhi không mắc lại những sai lầm cũ một lần nữa.

6. Thói quen giữ gìn đôi mắt

Trước khi không đi học, tôi đã giảng giải kỹ cho cháu về nguyên nhân và tác hại của bệnh cận thị làm cho cháu thấy sợ về hậu quả nghiêm trọng của cận thị nặng; bệnh này có thể làm cho võng mạc bị tụt xuống. Tôi thường xuyên nhắc lại việc này, cốt để khắc sâu ấn tượng cho cháu.

Sau khi Đình Nhi đã đi học, tôi đều nghiêm khắc bắt cháu luôn phải giữ khoảng cách 30 xen - ti - mét giữa mắt và sách. Trước khi cháu lên lớp 4, ngoài thị trường vẫn chưa bán loại đền bàn chống cận thị, tôi đã dùng biện pháp "truyền thống" là dùng một sợi dây vải choàng vào cổ cháu rồi buộc lại phía sau ghế đề phòng cháu cúi sát đầu vào sách, sau đó tôi phát minh ra một kiểu khác là đóng một chiếc giá đỡ cằm, buộc cháu phải giữ đúng cự ly. Khổ một nỗi bài vở của cháu thời kỳ đó quả là một gánh nặng quá sức. Đang học ở hoc kỳ 2 năm lớp 4, cháu bị sốt cao phải nghỉ học mất một tuần, thị lực được khôi phục lại 1,5, nhưng vừa đi học được mấy hôm thị lực lại tụt xuống còn 0,6. Mặc dù khi đi học lớp 5, tôi đã mua được cho cháu đèn bàn chống cận thị, nhưng cháu vẫn phải mang kính cận. may mà đã nhiều năm nay, tôi luôn nhắc nhở cháu phải giữ gìn đôi mắt, học kỳ 2 lớp 5 còn chữa cận thị cho cháu  bằng cách châm cứu suốt nửa năm trời (việc chữa bệnh này có tác dụng giữ được hiện trạng như thời học tiểu học). Đình Nhi còn có được một thói quen tốt nữa là cứ sau 20 phút học tập, thì lại cho mắt nhìn xa một lần (dù chỉ 5 giây). Vì vậy bệnh cận thị của cháu cũng không thật nặng lắm.

ĐƯỢC LÒNG ĐÌNH NHI,

CHA DƯỢNG LÀ ĐỒNG MINH TIN CẬY

 

Mùa hè năm 1988, gia đình chúng tôi có thêm một thành viên, một con người nho nhã, hài hước, đó là cha dượng của Đình Nhi, Trương Hân Vũ. Anh là đồng nghiệp của tôi, là biên tập cho một tờ tạp chí cấp tỉnh. Anh không chỉ coi ĐÌnh Nhi là một đứa con duy nhất để được chăm sóc, cũng như tôi, anh rất coi trọng việc giáo dục tố chất cho con. Có được sự chăm sóc chu đáo của cả tôi và anh, có thể nói đây là một điều may mắn lớn trong đời Đình Nhi.

Trương Hân Vũ sinh ra trong một gia đình có truyền thống văn hoá giáo dục. ông nội anh là một nhà thư pháp rất giàu khí tiết dân tộc. Cha anh thời trẻ cũng từng học đại học ở Bắc Kinh, là một trí thức chân chính. Mẹ anh từng được là anh hùng lao động cấp tỉnh, được mọi người tôn kính.

Sự hun đúc thường xuyên truyền thống văn hoá gia đình, đã khiến cho Trương Hân Vũ ngay từ nhỏ đã rất am hiểu cả hai nền văn hoá rực rỡ: văn hoá trung Quốc và văn hoá Phương Tây, hiểu biết rộng và đặc biệt có một cách nhìn khá độc đáo. Sự từng trải trong cuộc đời đã khiến anh hiểu khá rõ vai trò của các biện pháp giáo dục theo nghĩa rộng, nó có ảnh hưởng mạng tính quyết định tới sự thành công của một đời người. Anh có tài từ những chi tiết nhỏ nhìn ra việc lớn, nhiều năm về trước, anh đã có những nghiên cứu và dự đoán về tương lai lớp trẻ, độ xác thực khá cao. Anh đã có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự thành công trong việc giáo dục ĐÌnh Nhi.

Đặc biệt là, anh đã có một nhận định rất thành thực rằng: "Tiền đồ của một đứa trẻ bao giờ cũng quan trọng hơn tất cả mọi thứ". Đồng nghiệp và bạn bè hay hỏi ý kiến anh vào những thời điểm then chốt nhất trong việc giáo dục con cái họ.

Trương Hân Vũ rất có khả năng về môn vật lý, bù lấp cho tôi những chỗ còn khiếm khuyết về bộ môn này. Chính nhờ anh mà ĐÌnh Nhi mới có được sự say mê, biện pháp và khả năng về bộ môn vật lý ngay từ thời tiểu học, tạo điều kiện tốt cho ĐÌnh Nhi phát triển toàn diện. Huấn luyện từng bước, từng phần do anh đặt ra cho Đình Nhi không chỉ nhanh chóng nâng cao được kỹ năng học tập mà còn góp phần nhào nặn tâm hồn cho Đình Nhi (điều này tôi sẽ nói rõ ở phần sau).

Thời gian Đình Nhi học trung học, anh đã góp phần làm phong phú cuộc sống tinh thần của ĐÌnh Nhi. Chính bằng những kiến thức lịch sử xã hội phong phú và những lý giải sâu sắc độc đáo của mình, anh đã làm cho Đình Nhi nhanh chóng thành thục hơn về mặt tu dưỡng tư tưởng, nên sau này cháu được đánh giá rất cao cả trong và ngoài nước.

Tôi đã sớm ý thức được rằng, Đình Nhi càng lớn thì vai trò của Trương Hân Vũ càng quan trọng. Nghĩ về lâu dài, tôi đã đề nghị Hân Vũ trong vòng 1 năm  sau khi chúng tôi cưới nhau, anh phải xây dựng được mối quan hệ thật tốt với Đình Nhi, dẫu sao quan hệ giữa cha dượng và Đình Nhi cũng không phải mối quan hệ máu thịt. Vì vậy, muốn có được mối quan hệ tình cảm sâu sắc như ruột thịt, nếu chỉ dựa vào ý muốn chân thành và những sự hy sinh vô tư là chưa đủ. Cần phải suy nghĩ đến phương pháp, thời cơ và kỹ xảo.

Trước khi kết hôn, ba người chúng tôi đã cùng nhau đi chơi thả diều ở ngoài đồng, chơi trò "bắt cáo" do Trương Hân Vũ và Đình Nhi tự đặt ra, hơn nữa khi bố trí phòng mới, chúng tôi đã đặc biệt dành cho Đình Nhi một phòng thật đẹp... Những bước đệm đó, cùng với sách lược mà tôi đã bàn bạc với Tương hân Vũ là "năm đầu tiên không được trực tiếp tham gia vào việc dạy dỗ và quản lý ĐÌnh Nhi..." đã làm cho Đình Nhi thấy vui vẻ và thoải mái khi sống với cha dượng, nên cháu đã nhanh chóng có cảm tình với người cha dượng trầm tĩnh và nhã nhặn ngoài xã hội, điềm đạm, hài hước trong gia đình. Cứ được ở gần cha dượng là ĐÌnh Nhi không ngớt tiếng cười.

Sau khi về ở được ít lâu,anh đã gặp riêng tôi phê bình: "Em quá nghiêm khắc với Đình Nhi, đôi mắt em lúc nào cũng luôn soi mói vào những khuyết điểm của con, nói một lần con chưa nghe là đã vội đỏ mặt tía tai, giậm chân trợn mắt. Như vậy chỉ có thể tạo thành tâm lý chống đối ở con, rất bất lợi cho việc hình thành tính cách của con". Tôi đã nhận ra: "Anh nói rất đúng, chủ yếu vì mấy năm trước đây em một mình nuôi dạy con, quá bận rộn, làm gì có thời gian để kiên trì thuyết phục, đành phải dùng biện pháp có tính cưỡng chế như thế. Em đã biết như vậy là không tốt, anh nên thường xuyên nhắc nhở để em sửa chữa thói xấu đó". Trương Hân Vũ nói: "Những đòi hỏi của em đối với con đều đúng cả, nhưng không nên quá nghiêm khắc như vậy, nên giữ vững nguyên tắc này: lập trường phải kiên định, thái độ phải mềm dẻo. hơn nữa phải biết nắm bắt được mọi vấn đề, nhưng trong mỗi giai đoạn chỉ nên giải quyết một vấn đề".

Tôi chấp nhận lời phê bình của anh, và bắt đầu điều chỉnh thái độ đối với ĐÌnh Nhi, cháu vui ra mặt. Không hiểu được nguyên nhân sâu xa, cháu đã hỏi tôi: "Mẹ thấy không? Cha vừa đến đã làm cả nhà vui mẹ nhỉ!"

Về việc giáo dục con, Trương Hân Vũ không bao giờ tiếc tiền. Năm 1987, trong lúc mọi người lương bổng còn rất thấp, anh đã dám bỏ ra khá nhiều tiền để mua về một chiếc kính hiển vi cũ làm quà tặng Đình Nhi nhân ngày kỷ niệm sinh nhật lần thứ 6 của cháu. Chiếc kính hiển vi cũ đó đã là cái mốc quan trọng trong quá trình phát triển trí lực của ĐÌnh Nhi. Từ đây, cháu đã có thể nhìn thấy cả một thế giới nhỏ xíu mà mắt thường không thể nhìn thấy được. Điều đó đã kích thích tính hiếu kỳ và lòng ham hiểu biết của ĐÌnh Nhi. Trước đây gặp bất cứ điều gì lạ cháu hay hỏi: "Tại sao?", còn bây giờ những câu hỏi cháu đặt ra đã chuyển sang hướng mới, sâu sắc và tinh vi hơn. Mẹ của anh cũng rất quý Đình Nhi, bà gửi tặng cháu cuốn sách "Mười vạn câu hỏi". Cháu rất thích cuốn sách này. Tất cả những việc làm trên đều rất có lợi đối với lòng say mê tri thức khoa học và ý chí quyết tâm tìm đến ngọn nguồn mọi sự vật của ĐÌnh Nhi.

Mười một năm sau, khi Đình Nhi nhận được giấy báo của Trường Đại học Harvard, trong giấy gọi nhập học ấy, nhà trường yêu cầu ĐÌnh Nhi phải viết một bài tự thuật với đầu đề: "Ai là người có ảnh hưỏng quan trọng nhất đối với em. Hãy kể lại những ảnh hưởng đó". Đình Nhi tự nhiên nhớ đến chiếc kính hiển vi cũ mà cháu được tặng từ thời còn nhỏ, cháu đã lấy đó làm tiêu điểm, viết một bài tự thuật thật xúc động.

Ý nghĩa sâu xa của kỷ vật ấy, lúc đó Đình Nhi đâu đã ý thức được rằng: năm lên 7 tuổi, lần đầu tiên tổ chức kỷ niệm sinh nhật cha dượng tại nhà mình, chợt nhớ đến niềm xúc động khi nhận được quà sinh nhật của cha dượng một năm trước đây, trong quyển nhật lý mà Đình Nhi mới viết được mấy bài, cháu đã viết tiếp mấy dòng làm quà sinh nhật tặng lại cha:

"Hôm nay là ngày sinh nhật ba, con muốn viết mấy dòng nhật ký làm quà sinh nhật:

Ba đã đem lại niềm vui cho con

Chiếc kính hiển vi mà ba đã mua về cho con đã giúp con nhìn thấy những vi khuẩn hình que trong đại tràng và những vi khuẩn hình cầu trong quả nho. Nó cũng giúp con nhìn thấy quá trình chất rắn biến thành chất lỏng và ngược lại quá trình chất lỏng biến thành chất rắn trong thí nghiệm... Mẹ rất yêu quý con, nhưng mẹ chưa làm được những việc như vậy".

 

MỘT NGÀY MỘT VÀI CÂU,

NHẬT KÝ PHẢI VIẾT ĐỀU

 

Vào đầu năm học lớp 2, Đình Nhi nói với tôi: cô chủ nhiệm đề nghị cả lớp mỗi người hàng tuần viết hai bài nhật ký, cô giáo sẽ sửa bài cho, nhưng đây không phải là bài tập bắt buộc, ai không viết cũng không sao. Tôi không hỏi Đình Nhi: "Con có viết hay không?", mà chỉ cố ý có thái độ vui mừng. Tôi lục tìm sách vở, giở cho cháu xem mục "Viết nhật ký rất có lợi cho học tập" trong cuốn "Phương pháp dạy con chăm chỉ học hành", ĐÌnh Nhi tỏ ra rất thích thú.

Tôi cố ý làm như vậy là để tạo cho Đình Nhi một thói quen luôn biết tuân theo sự sắp xếp của cha mẹ, cũng là để kích thích sự hứng thú viết nhật ký của cháu. Đối với các cháu ở lứa tuổi này, thái độ của người lớn luôn là một sức truyền cảm hữu hiệu và cũng là một mệnh lệnh không lời. Tôi và Trương Hân Vũ thường sử dụng những phương thức giàu sắc thái tình cảm để lôi cuốn Đình Nhi tự giác làm những công việc cần nhiều sức, không bao giờ để cho đứa trẻ chưa hoàn toàn chính chắn cả về suy nghĩ lẫn cách nhìn được tuỳ ý lựa chọn.

Đình Nhi vui vẻ "bước vào cuộc chơi", nhưng cháu rất lo không biết nên viết như thế nào. Tôi gợi ý cho cháu nên viết vài bài về kỳ nghỉ hè vừa rồi. Thế nhưng, những chuyện trong cả mấy tháng nghỉ hè thì nhiều lắm, nghĩ đi nghĩ lại, Đình Nhi vẫn "lúng túng như gà mắc tóc". Nhân cơ hội, tôi dạy cháu "thủ thuật chọn đề tài": chỉ chọn và viết những chuyện "có vấn đề" mà thôi. Đồng thời, cũng chỉ rõ cho cháu biết những quy định trong khi viết nhật ký:

 

 

 

 

 

 

  1. Tốt nhất là viết thành những chuyện nhỏ thú vị, không viết những điều tẻ nhạt hoặc kể lể dài dòng "dây cà ra dây muống" (rất không có lợi cho việc viết tập làm văn sau này).
  2. Có thể chỉ viết một vài câu, nhưng phải để cho người đọc hiểu được mình định nói gì (yêu cầu nâng cao khả năng hiểu biết và khả năng biểu đạt ngầm ý ở đó rồi).
  3. Câu chuyện dài viết một ngày chưa xong thì có thể chia ra viết trong mấy ngày (để chuẩn bị cho những bài viết dài sau này)
  4. Những chữ chưa biết viết thì để cách quãng rồi ghi lại phiên âm, sau này tra cứu điền vào cũng được. (vì bận quá, có nhiều chỗ phiên âm đến nay vẫn chưa điền vào được chữ).
  5. Nên viết thành hàng để có chỗ sau này sửa những lỗi sai. (cốt là để Đình Nhi học cách giải quyết những vấn đề kỹ thuật).

Như vậy, lần đầu tiên Đình Nhi đã viết một chùm nhật ký như sau:

Ngày 2 tháng 9

Nhớ lại những ngày hè

Năm học lớp 2 đã bắt đầu, cô giáo Thành bảo chúng tôi viết nhật ký, đây quả là một ý tưởng hay. Tôi cho rằng đây sẽ là một dịp tốt để phát triển tài năng. Tôi sẽ viết mấy bài về những chuyện trong kỳ nghỉ hè, sau này lớn lên, xem lại chắc là thú lắm. Hom nay thử viết bài đầu tiên:

 

1. Công việc tôi thích nhất: Trong thời gian nghỉ hè công việc tôi thích nhất là xem phim truyền hình đồng thoại nhiều tập, như phim "Hoàng hậu băng tuyết", "Ra bô"...

Ngày 4 tháng 9

2. Những công việc tôi không thích: Những công việc mà tôi ghét nhất là đi "ngủ trưa và phải ngủ lúc 9 giờ tối". Tôi không thích ngủ trưa là vì buổi trưa tôi thích đọc sách, còn không thích ngủ từ 9 giờ tối, vì lúc ấy đang có chương trình truyền hình rất hay. Nhưng vì hôm sau phải dậy sớm đi học, đành phải ngủ thôi.

Ngày 8 tháng 9

3. Công việc tôi thích làm nhất: Công việc tôi thích làm nhất là xoa bóp cho mẹ. CÙng mẹ ở cơ quan trở về, chỉ cần thấy mẹ tỏ ra mệt mỏi tôi liền xoa bóp cho mẹ ngay. Đấm lưng, xoa bóp đầu gối, mẹ rất thích, ĐÌnh Nhi cũng rất thích.

Tôi yêu cầu Đình Nhi, mỗi bài nhật ký đều phải có tiêu đề, sau đó viết những việc xoay quanh tiêu đề ấy giống như viết tập làm văn. Vì vậy phần lớn những bài nhật ký của ĐÌnh Nhi đều có tiêu đề. Việc này vừa để cho Đình Nhi có thói quen viết đúng trọng tâm, vừa để cho Đình Nhi biết được thủ thuật chọn đầu đề. Những kỹ năng này sẽ giúp ĐÌnh Nhi giành được điểm số cao trong các kỳ thi môn ngữ văn.

Về cơ bản, tôi không cần biết Đình Nhi viết những gì và viết thế nào, tôi chỉ yêu cầu Đình Nhi sau khi tìm được đề tài rồi thì phải "nhanh chóng bắt tay vào việc ngay". Tôi chịu trách nhiệm xem lại cho cháu. Nếu phát hiện thấy chữ nào viết sai, tôi lấy mực đỏ đánh dấu phía dưới để Đình Nhi tự tra cứu và sửa chữa. Có lúc tôi cũng cho ý kiến về một vài câu văn, còn sửa hay không là tuỳ cháu. Có điều ĐÌnh Nhi luôn coi trọngý kiến của tôi, mặc dầu có lúc cháu rất ngại không muốn sửa, nhưng rồi cháu cũng nhẫn nại sửa theo ý tôi, cũng có lúc cháu dứt khoát viết lại một bài khác. Cần phải nhấn mạnh rằng, thời kỳ học tiểu học, viết nhật ký không phải là để đối phó với việc thi cử, mà chỉ nhằm bồi dưỡng năng lực tổng hợp và những tố chất tốt đẹp mà thôi. Tập làm văn để chuẩn bị cho thi cử, việc này lên trung học mới làm.

Từ năm lớp 2 tiểu học đến năm thứ hai bậc cao trung (trong suốt 10 năm đó), ĐÌnh Nhi ngày nào cũng lưu tâm tìm kiếm đề tài cho nhật ký của mình. Năm này qua năm khác, việc tìm kiếm này đã rèn luyện cho Đình Nhi một thói quen quan sát thường xuyên và suy nghĩ thận trọng. Đó cũng là một trong những muc đích mà chúng tôi yêu cầu Đình Nhi phải chú ý viết về những sai sót của mình. Việc này cốt nhằm bồi dưỡng thói quen và khả năng tự hối cải. Những ngày đầu tiên, ĐÌnh Nhi thường không thích viết về những "việc xấu" của mình, chừng một năm sau cháu nhận ra rằng: biết hối cải những sai lầm của mình trên trang nhật ký là một điều bổ ích.

Thứ sáu, ngày 8 tháng 5 năm 1988 (học kỳ II lớp 2)

Hôm nay, ngồi lật lại những trang nhật ký, từ trước đến nay tổng cộng đã viết được 69 bài, trong đó có 33 bài kể chuyện, còn 36 bài là viết về những sai sót của mình.

Mình thấy rằng mấy bài đầu tiên trong nhật ký, mình đã viết về những điều tự nghĩ ra thời còn nhỏ. trong đó các chuyện như:"Bông hoa tại sao nở được?", "Công việc tôi yêu thích nhất", "Những việc tôi thích làm". "Mỹ phẩm", và bài "Đeo găng tay"...

Những bài viết thừa nhận sai lầm của mình, xem ra cũng chưa hay lắm, thế nhưng nó cũng đã ghi lại được những sai lầm ấu trĩ của tôi trong thời thơ dại, thường xuyên xem lại nó, cũng là một bài học làm cho mình không bao giờ mắc lại những sai lầm tương tự.

Xem lại những trang nhật ký của mình từ trước đến nay, có cảm giác mình đã làm được những việc mình muốn làm, đọc lại thấy thật có ý nghĩa.

 

 

Nhật ký của ĐÌnh Nhi, từ những ngày đầu chỉ viết được một, hai câu, 4 năm sau cháu đã viết được những bài dài tới 4.500 chữ, được các thầy cô giáo hết lời ca ngợi (đương nhiên là phải phân ra viết trong mấy ngày liền). Ví dụ như bài "Rời cổng trường đi xuống nông thôn". Thời gian này cũng có lúc cháu thích viết và lúc ngại viết. Nhưng khi lên lớp 5, nhiệt tình viết nhật ký của cháu lại được khôi ohục trở lại. Ngay cả việc lật giở lại những trang nhật ký trước đây, đối với ĐÌnh Nhi cũng là một niềm vui bổ ích.

Từ ngày Đình Nhi bắt đầu ghi nhật ký,chúng tôi lại có thêm một kênh thông tin mới để hiểu về Đình Nhi, đồng thời cũng có thêm một phương pháp mới để giáo dục ĐÌnh Nhi. Bởi vì chúng tôi thường bảo cháu chỉ viết về "những chuyện đáng viết nhất". Những chuyện mà chúng tôi khuyên Đình Nhi nên viết vào nhật ký, đều là những chuyện đáng được coi trọng và nên khẳng định. Dần dà, những tư tưởng và quan niệm của chúng tôi đã ảnh hưởng sâu sắc đến tâm hồn cháu. Những trang nhật ký của Đình Nhi cũng vì vậy đã ghi lại một cách chân thực quá trình phát triển tư tưởng và tình cảm của cháu.

Quá trình đó, theo cách nói ngày nay chính là quá trình bồi dưỡg tố chất. Vấn đề mấu chốt là các bậc cha mẹ phải lưu tâm ở mọi lúc, mọi nơi, không được bỏ qua bất cứ việc gì, phải kiên trì nguyên tắc, thống nhất quan điểm, những quy định đối với con cái không được thay đổi dù chỉ một lần, để cho con cái không hy vọng cầu may với sự nhân nhượng của cha mẹ.

Quá trình này lâu dài và phức tạp, nhưng không hề tẻ nhạt khô khan. hãy xem lại nhật ký của ĐÌnh Nhi từ những năm tiểu học, bạn sẽ thấy được một cách cụ thể và chân thực rằng, tâm hồn của Đình Nhi cực kỳ phong phú, được dựng nên bởi từng viên gạch nhỏ.

Ngày 2 tháng 11 (Khi Đình Nhi 7 tuổi)

Hôm nay tôi sáng tác một bản nhạc, bản nhạc này không phải là bản nhạc bình thường, đó là bản nhạc đầu tiên do tôi tự sáng tác. Trên chiếc đàn điện tử, lúc tôi ấn phím đen, lúc tôi ấn phím trắng, lúc lại hoà hai âm làm một... Tóm lại, là tôi thấy rất hay, tôi liền lấy máy ghi âm ra ghi lại. Sau đó mở băng cho mẹ nghe. Mẹ nói: "Nghe hay lắm! Con tua lại băng đi, lát nữa ba về, mở cho ba nghe, chắc ba vui lắm". Tôi tua lại băng, ngồi chờ ba vè để mở cho ba nghe.

(Mục đích chủ yếu: Khuyến khích những hoạt động sáng tạo)

 

Ngày 3 tháng 11

Trước khi đi thi

Vì ngày mai đã thi rồi, nhật ký phải viết ngắn thôi. Tối nay, làm xong lài tập toán, tôi xem lại bài văn, hơn 9 giờ lên giường đi ngủ.

(Mục đích chủ yếu: Ngày thường phải biết vận dụng thời gian để học tập, trước ngày đi thi phải biết nghỉ ngơi để đầu óc thảnh thơi).

Ngày 4 tháng 11

Có một chữ

Bài thi hôm nay có một chữ tôi không viết được. Thế mà thầy giáo không phát hiện ra, cho nên tôi vẫn được điểm tối đa. Nhưng trong lòng luôn áy náy. Bởi vì, lẽ ra chỉ được 19 điểm thôi, thế mà tôi vẫn được tròn 20 điểm. tôi nghĩ: có nên nói cho ba mẹ biết không nhỉ? Suy nghĩ hồi lâu, tôi quyết định cứ nói ra. mẹ khen tôi thật thà, còn ba thì mừng lắm.

(Mục đích chủ yếu: Kịp thời động viên những việc làm thành thật, truyền thụ một quan điểm đạo đức tốt. Một kết quả không phải do sức mình làm ra, thì dù có là một núi vàng, cũng không thèm động đến. Làm cho con cái biết tự tránh xa những hành vi xấu như tham lam và nói dối).

 

Ngày 6 tháng 11

Những vấn đề được phát hiện ra trong kỳ thi

 

Có hai điều mới được phát hiện ra qua kỳ thi này: một là, hay quên chữ; hai là, hay viết sai. Chỉ hai việc này thôi cũng đã đủ gay go rồi. Tại sao lại như vậy? Thì ra các bài làm ở nhà, không chịu kiểm tra kỹ lại, đến khi đi thi, đương nhiên là làm sai rồi. Vì vậy, từ nay, các bài làm ở nhà phải kiểm tra lại thật kỹ. Điều này quan trọng lắm.

(Mục đích chủ yếu: Học cách phân tích vấn đề, tổng kết kinh nghiệm)

Ngày 15 tháng 11

Bức thư từ Nhật Bản

Hôm nay ba tôi nhận được một bức thư từ một người bạn Nhật Bản. Trên phong bì dán năm con tem thư. Tôi thấy, mỗi chiếc tem thư đều có ghi con số 40. Tôi cho rằng đó là giá 4 hào một chiếc tem. Tôi nhẩm tính, như vậy cả thẩy là 2 đồng. Ba tôi bảo: "Đây là tiền Nhật con ạ, đơn vị là đồng chứ không phải là hào. 200 yên Nhật tương đương với 1 đô la rưỡi, 1 đô la tương đương với 8 đồng nhân dân tệ. 1 đô la rưỡi bằng 12 nhân dân tệ". "Ba có thể cho con những chiếc tem ấy được không?" Ba nói: "Được con ạ!" Tôi cẩn thận lấy những chiếc tem thư ấy.

(Mục đích chủ yếu: Muốn hiểu biết nhiều, phải tích luỹ đều đều).

Ngày 10 tháng 11

Truyền hình với nhật ký

Chiều nay, vừa xem xong bộ phim "Gấu con thoát nạn", thì bộ phim "Li li" lại bắt đầu. Tôi rất muốn xem tiếp, liền nói với mẹ: "Mẹ ơi, con xem phim trước rồi viết nhật ký sau cũng được chứ?" Mẹ nói: "Không được, phải giờ nào việc ấy, việc hôm nay chớ để ngày mai". Thế là tôi tắt ti-vi, ngòi vào bàn, viết nhật ký.

(Mục đích: Giáo dục giữ vững nguyên tắc, học trước chơi sau).

 

Ngày 30 tháng 11

Lời hứa

Tối nay, mẹ giúp tôi kiểm tra lại bài làm ở nhà, bỗng mẹ phát hiện ra chỗ sai. Tôi vội vàng giật ngay lấy quyển vở bài tập. Mẹ nói: "Không được". Tôi cứ bỏ chạy. Sau khi tôi sửa lại chỗ sai ấy, đưa vở lại cho mẹ kiểm tra. Mẹ đẩy vở ra, không thèm kiểm tra hộ nữa. Ba nói: "Con phải thành thật xin lỗi mẹ đi, mẹ sẽ tha cho". Suy nghĩ một lát, tôi quyết định xin lỗi mẹ: "Con xin hứa, lần sau con không thế nữa". Mẹ gật đầu nói: "Con đã hứa vậy, mẹ yên tâm rồi".

(Trọng tâm giáo dục: Chỉ kiểm điểm không chưa đủ, phải có biện pháp giúp trẻ sửa chữa sai lầm).

Ngày 26 tháng 12

"Xứng đáng với danh hiệu"

Hôm nay là ngày thứ 2, buổi sớm toàn trường tập trung làm lễ chào cờ.

Thầy hiệu phó lên phát biểu, thầy nói về hai việc. Việc thứ nhất, thầy hỏi: "lớp nào được "cờ đỏ" về mặt giữ gìn kỷ luật, mời lớp trưởng lớp đó giơ tay". Thầy hiệu phó lại hỏi: "Những lớlp này đã thật xứng đáng với danh hiệu đó hay chưa? Đề nghị các lớp cho toàn trường biết về thành tích của mình?" Sau đó thầy hỏi tiếp: "Em nào có thể trả lời được, "xứng đáng với danh hiệu" là thế nào?" Tôi lập tức giơ tay xin phát biểu. Thật may, thầy hiệu phó đã gọi tôi. Tôi bước lên trước mi-crô nói: "Thưa thầy! tức là danh hiệu và thực tế phải phù hợp với nhau ạ!" Trả lời xong, tôi vội rời khỏi kỳ đài. Thầy hiệu phó nói: "Thầy cảm ơn. Em đã trả lời rất đúng!" Về đến nhà tôi kể lại chuyện này với mẹ. Mẹ nói: "Con hãy ghi việc này vào nhật ký".

(Trọng tâm giáo dục: Dám xung phong làm ở những thời điểm then chốt, đó là một biếu hiện đáng khen. Nhân dịp này, toi giảng giải cho ĐÌnh Nhi nghe về ý nghĩa tích cực của câu thành ngữ: "Mạnh bị gạo, bạo bị tiền". Dộng viên cháu chủ động nắm vững càng nhiều tri thức để chờ đợi những thời cơ to lớn hơn).

Ngày 28 tháng 2

Nhóm bạn yêu thích ca hát

Chiều nay thầy Hoàng, người phụ trách đội hợp xướng nhà trường hỏi tôi: "Ngoài em ra, lớp 2B còn có em nào thích tham gia đội hợp xướng nữa không?" Tôi trả lời: "Để em đi hỏi xem sao..." Tôi đi xuống gác, vào lớp hỏi:"Có bạn nào thích vào đội hợp xướng không?"

 

Vừa hỏi xong, lớp đã có hơn 20 bạn xung phong giơ tay xin tham gia. Tôi và các bạn cùng đi lên gác. Vừa đến cửa phòng đã có đến một nửa trong số các bạn ấy bỏ trốn. Tôi nghĩ rằng các bạn ấy sợ. Chỉ còn khoảng 10 bạn mạnh dạn bước vào phòng. Thầy Hoàng bảo tôi: "Em hày chọn hộ thầy lấy mấy bạn có giọng ca thật tốt". Chọn đi chọn lại, cuối cùng tôi chọn được 5 bạn.

(Trọng tâm giáo dục: Khen ngợi ĐÌnh Nhi đã giúp thầy giáo làm công tác tổ chức. Từ nhỏ đã làm quen với việc này, lớn lên có nhiều triển vọng).

Ngày 2 tháng 3

Tự giáo dục

Chiều nay tôi và bạn Linh Linh đã đánh nhau. Về tới nhà, tôi kể lại chuyện này với ba. Ba giáo dục tôi, tôi cãi lại. Mẹ cũng đến dạy bảo tôi, tôi cũng cãi lại. Mẹ tức quá bảo tôi: "Vậy thì con hãy tự bảo mình". Tôi bắt đầu tự giáo dục. Lúc đầu thấy rất buồn cười, nhưng rồi tôi cũng tự giác giáo dục được mình. Mẹ nói: "Sau này, ta sẽ thường xuyên dùng phương pháp tự giá dục".

Xin bổ sung: hai đứa chúng tôi đánh nhau vì chuyện tranh giành đồ chơi.

Lại xin bổ sung nữa: Tôi giáo dục bằng cách tự mình tranh luận với mình.

(Trọng tâm giáo dục: Tự giáo dục có thể nâng lên thành tự kiềm chế, đó là một kỹ năng "Tình thương EQ" quan trọng).

Ngày 6 tháng 3

Hỏi đường

Sáng nay đi học về, tôi thấy có một người hỏi người khác đường đến nhà ông Tạ Dương Thanh. Người kia nói: "Không biết" Tôi vội chạy đến nói với người hỏi đường: "Cháu biết bác Tạ, bác ấy là hàng xóm nhà cháu". Tôi liền dẫn người đó đến trước cửa nhà bác Dương Thanh. Tôi chỉ vào đó: "Ở đây bác ạ!" Người hỏi đường nói: "Bác cảm ơn cháu nhé!"

(Trọng tâm giáo dục: Phải luôn dạy con ý thức cảnh giác, đề phòng bọn bắt cóc, không được dẫn đường cho người lạ. Tuy vậy, còn bồi dưỡng phẩm chất sẵn sàng giúp đỡ người khác, thì nên dùng phương pháp khác hay hơn).

Ngày 9 tháng 3

Bài thuốc bí ẩn của tôi

Chiều nay, mẹ bị nhức đầu, tôi đã làm cho mẹ tôi một bài thuốc bí mật: tôi đổ một chút nước vào một lọ nước hoa đã dùng hết nhưng vẫn còn mùi thơm, cho thêm một ít thuốc đánh răng đã hoà tan trong nước, và thêm một chút kem dưỡng da. Sau khi đã xóc đều, tôi lấy ra xoa lên đầu mẹ và bắt đầu xoa bóp. Mẹ hỏi: "Con đang làm gì vậy?" Tôi trả lời: "Con đang cho mẹ một bài thuốc bí mật, mẹ thấy thế nào?" Mẹ nói: "Mẹ thấy trong lòng rất thoải mái". Chỉ một lát sau mẹ đã khỏi nhức đầu.

(Trọng tâm giáo dục: "Trăm nghe không bằng một thấy", câu nói này rất đúng trong cuộc sống, càng rất đúng cho học tập).

Ngày 17 tháng 3

Phương pháp mới

Chiều nay, mẹ bảo tôi, từ nay về sau mẹ không kiểm tra lại bài làm ở nhà của con nữa đâu, mẹ chỉ ký cho một chữ, công nhận con đã làm bài thôi. Tôi hơi ngạc nhiên. Sau đó, tôi nói với mẹ: "Nhà bạn Chung Nguy cũng làm như vậy mẹ ạ!" Mẹ nói: "Thế thì chúng ta cũng học tập kinh nghiệm của họ thôi".

(Trọng tâm giáo dục: Cha mẹ không kiểm tra bài làm của con trước khi thầy cô giáo chấm bài. Làm như vậy để thầy cô giáo biết được thực chất trình độ của con mình, đồng thời cũng để con thấy được hậu quả của những việc làm thiếu thận trọng. Việc làm này chỉ thích hợp với những học sinh thực sự say mê học tập).

Ngày 21 tháng 4

Hà tiện

Hôm vừa rồi đây, trong giờ thi, thầy giáo phát cho mỗi học sinh một tờ giấy nháp. Tôi thấy đẹp quá liền giữ lại sau này làm diều. Tôi không dùng nó để nháp bài. Kết quả, vì bênh hà tiện, muốn tiết kiệm một tờ giấy nháp mà kết quả bài thi bị mất 13 điểm. Tôi thầm hứa, sau này cái gì cần dùng đến thì nhất định phải làm, dù có phải trả giá như thế nào cũng không được bỏ. Ngoài ra, tôi cũng còn có một khuyết điểm nữa là khi đã làm xong bài, rất lười kiểm tra lại.

 

Sau này, nếu có sai lầm gì phải mạnh dạn nói với ba mẹ, và tự thừa nhận. Tôi sẽ cố gắng không để sau này phạm phải những sai lầm như vậy nữa. Những sai lầm đã phạm một lần rồi không bao giờ để phạm lại lần thứ hai.

 

(Trọng tâm giáo dục: Sau khi giảng giải cho Đình Nhi nghe rõ ý nghĩa câu: "Chớ nên tham bát bỏ mâm", cháu đã không bao giờ còn vì chuyện lười nháp bài mà để bị mất điểm nữa. "Những sai lầm đã phạm một lần rồi, không bao giờ để phạm lại lần thứ hai". Điều này đã dần dần trở thành nguyên tắc cho mọi việc làm của ĐÌnh Nhi).

Do không được vào học tại các trường tiểu học loại A, chúng tôi vẫn chưa hoàn toàn yên tâm với kết quả học tập cao của ĐÌnh Nhi. Vào một ngày thứ bảy, giữa học kỳ II lớp 2, Ương Ương, một bạn tốt của ĐÌnh Nhi, hiện đang học Trường tiểu học Sở Thương Nghiệp đến chơi với ĐÌnh Nhi. Tôi hỏi Ương Ương: "Cháu có viết nhật ký không?" Ương Ương nói: "Thầy giáo yêu cầu chúng cháu mỗi ngày phải bỏ ra 30 phút viết một bài nhật ký dài 250 chữ, tuỳ ý viết cái gì cũng được".

Tôi thấy biện pháp này rất hay, liền bảo Đình Nhi làm theo. Tôi còn bổ sung thêm: nếu câu chuyện quá dài có thể chia ra viết trong vài ngày, nếu câu chuyện ngắn quá, thì một ngày có thể viết hai chuyện. Tóm lại, trong thời gian 30 phút vẫn phải viết 250 chữ. Tôi cho rằng, việc hạn chế số chữ và thời gian như vậy buộc ĐÌnh Nhi phải suy nghĩ và viết thật nhanh, rất có lợi cho việc tập trung tư tưởng, nâng cao hiệu suất tư duy.

Vì Ương Ương đã làm như vậy, nên Đình Nhi vui vẻ chấp nhận. Một bài nhật ký bây giờ thường dài gấp đôi những bài trước đây, vì vậy trong quá trình sưu tập tư liệu, bắt buộc phải quan sát kỹ hơn. Từ đây, công việc viết nhật ký của Đình Nhi bước sang giai đoạn mới, ghi lại quá trình bồi dưỡng tố chất tổng hợp rất sinh động của mình.

Ngày 16 tháng 5

 

Chiều nay, trên đường đi đổ rác về, tôi nhìn thấy ba chiếc chậu hồng trụ đỉnh đẹp tuyệt vời. Trên mỗi chậu đều nở được ba bông hoa. Tôi nghĩ ở đây không có ong mật làm sao có thể thụ phấn được, thế là tôi quyết định thụ phấn nhân tạo cho chúng.

Tôi cầm nhẹ một bông hồng đực, rũ phấn vào trong lòng bàn tay, sau đó tôi vít nhẹ một bông hoa hồng cái, để cho noãn hoa của nó chấm vào phấn hoa đực trong lòng bàn tay tôi. Cứ lần lượt như vậy, tôi đã thụ phấn nhân tạo cho tất cả các bông hoa cái.

Sau khi thụ phấn xong cho mấy chậu hồng trụ đỉnh, tôi lại thấy bên cạnh có mấy chậu sen lệnh kiếm cũng đang nở hoa. Tôi chợt nghĩ: thử lấy phấn đực của hồng trụ đỉnh thụ phấn nhân tạo cho sen lệnh kiếm xem sao.

Thế là, tôi lại rũ phấn đực của hoa hồng trong lòng bàn tay, rồi đem đến mấy chậu hoa sen lệnh kiếm, tôi dốc phấn hồng trụ đỉnh vào noãn cái của hoa sen. Như vậy, tôi đã làm thêm được một việc là lai giống hoa sen bằng phương pháp thụ phấn nhân tạo.

Mẹ nhận xét: bề ngoài hoa hồng trụ đỉnh như thế nào? Nhuỵ đực và nhuỵ cái của nó có gì khác nhau, làm thế nào để phân biệt được? Chưa miêu tả được hoa sen lệnh kiếm. Tôi miêu tả quá trình thụ phấn sinh động và cụ thể, nếu hoa cũng miêu tả được như thế thì tốt biết bao. Xem ra, về quá trình thao tác, tác giả đã ghi được khá rõ ràng, còn việc quan sát đối tượng thao tác chưa được tả tỉ mỉ. Cần phải học cách miêu tả các bài "Chú sóc con" và "Con chim chả hồng" trong sách giáo khoa. Chỉ cần mấy câu tả đã làm hiện lên một cách sống động vật mình miêu tả. Điều mấu chốt là, khi quan sát phải nhanh nhạy tìm ra được đặc điểm của sụ vật.

(Trọng tâm giáo dục: Ba đã nhiệt liệt biểu dương "hoạt động khoa học" còn mang nặng tính ấu trĩ ấy của ĐÌnh Nhi, còn tôi đóng vai trò của một cô giáo ngữ văn. Sau khi đọc lời nhận xét của tôi, chủ nhật sau đó, Đình Nhi đã bỏ công quan sát kỹ hai loài hoa đó, lấy đó làm tài liệu cho một bài nhật ký khác. Sau đó mấy ngày, ĐÌnh Nhi lại viết một bài nhật ký nữa có liên quan về hoa, lần này cháu đã tiến bộ nhiều).

Ngày 22 tháng 5

Chiều nay, trong giờ lên lớp của "Nhóm bạn cùng chung sở thích", thầy giáo dạy tập làm văn đã lấy bài "Những bánh xe trong cuộc sống" của tôi làm bài văn mẫu, đọc cho cả lớp nghe. Tôi mừng rơn.

Vừa tan học, tôi vội vã trở về. Tới nhà, ba mẹ đi làm chưa về. Tôi ngồi vào bàn làm bài tập và viết chữ. Một lát sau, ba đi làm về, tôi nói với ba: con hâm lại cơm rồi. Ba nói số cơm đó không đủ ăn, phải đi vo gạo nấu thêm cơm. Thế là tôi đi vo gạo, tôi nấu thêm một nồi cơm mới. Đúng lúc đó mẹ cũng trở về nhà. Mẹ xuống bếp làm thức ăn, còn tôi trở về phòng riêng làm tiếp công việc của mình.

Ăn cơm tối xong, tôi vội đem bài tập làm văn ra khoe mẹ. Không ngờ mẹ nói: "Viết rất bình thường. Bài này mà cũng được lấy làm bài mẫu, chứng tỏ rằng trình độ viết văn của lớp con còn kém lắm. Như vậy, chẳng qua chỉ là "bó đũa chọn cột cờ", "xứ mù thằng chột làm vua" mà thôi".

(Trọng tâm giáo dục: Không nên quá coi trọng những lời khen rẻ tiền. Nhà văn nổi tiếng Mỹ, lúc ông 8 tuổi cũng có những chuyện tương tự. Lần đầu tiên ông làm được một bài thơ, mẹ tấm tắc khen: "Hay quá!" Bố thì lại chê: "Dở òm!" Nhiều năm sau, ông cảm thấy rất mừng vì ngay từ nhỏ đã được nghe hai ý kiến hoàn toàn trái ngược nhau đối với cùng một tác phẩm đầu tay của mình. Sự việc đó đã dạy cho ông biết: phải luôn giữ được trạng thái cân bằng trước những lời khen chê đủ kiểu của thiên hạ, không được vì sự chê bai của người khác làm mất đi dũng khí của mình, và trước sự tán dương ầm ĩ phải biết kiềm chế, không được say sưa tự mãn).

Ngày 3 tháng 6. Thứ bảy

Chiều nay, bạn Ương Ương đi xe đạp đến trước sân nhà, gọi tôi, rủ đi tập xe đạp. Tôi bảo bạn Ương Ương, hãy lên nhà tôi đã để tôi sắp xếp, xem có thời gian đi xe đạp hay không. Và còn được bao nhiêu. Bạn Ương Ương liền khoá xe lại, leo cầu thang gác lên nhà, tôi ngồi viết một thời gian biểu, nội dung như sau:

Luyện viết chữ: 60 phút

Làm bài tập ngữ văn: 30 phút

Lau nhà: 15 phút

Viết nhật ký: 60 phút

Luyện đàn: 30 phút

Tổng cộng là 3 giờ 15 phút. Quỹ thời gian buổi tối là 5 giờ 55 phút (trừ ăn tối và nghỉ ngơi). Như vậy tôi còn 1 giờ 10 phút để tập xe đạp. Tôi và Ương Ương vui vẻ xuống lầu.

(Trọng tâm giáo dục: để Đình Nhi biết cách sắp xếp thời gian của mình trong cả một giai đoạn dài, cứ đến cuối tuần tôi yêu cầu cháu phải lập được một bảng thời gian biểu chi tiết cho cả tuần sau. Trước hết phải trừ đi những thời gian dùng cho mọi việc bắt buộc cho sinh hoạt hàng ngày như ăn uống, tắm giặt, ngủ nghỉ, xem truyền hình... xem còn bao nhiêu thời gian để làm việc. Sau đó lại tính riêng hai ngày thứ bảy và chủ nhật, giúp mẹ làm việc vặt trong gia đình, đi chơi xa hoặc tiếp khách... Trừ tất cả các khoản đi, thì sẽ biết có còn thời gian để đi chơi hàng ngày không, và còn bao nhiêu thời gian. Đối với các bậc cha mẹ, việc tính toán kỹ như vậy sẽ tránh được việc lúc nào cũng hò hét con học bài, biến việc học tập của con thành việc "khổ sai". Làm việc theo giờ nào việc nấy rất có lợi cho việc nâng cao hứng thú và hiệu suất học tập cho con).

 

Ngày 1 tháng 7. Chủ nhật. Trời mưa

 

 

Chiều nay, ba cho tôi và Ương Ương cùng tập “diễn thuyết” từ 3 đến 5 phút.

Chúng tôi bắt đầu đọc sách. Cuốn sách mà tôi đọc là cuốn “Bí mật” - một tuyển tập các chuyện lạ trên thế giới. Tôi chọn bài “Các kiểu ly hôn” để tập diễn  thuyết. Tôi bắt đầu kể:

“Trên thế giới có nhiều kiểu ly hôn.

Ly hôn bằng lời thề: ở một số nước Ả rập, khi một người chồng đã chán ghét vợ mình và có ý định bỏ vợ, thì chỉ cần chỉ thẳng vào mặt vợ mình và nói liền ba tiếng: “Ly hôn, ly hôn, ly hôn”. Thế là có thể ly hôn.

Ly hôn bằng cách kéo đứt sợi dây: ở một số nước phía Nam dãy núi Hymalaya, sau khi lấy nhau, cuộc sống vợ chồng không hoà hợp, chỉ cần hai bên thuận tình ly hôn, họ có thể lấy một sợi chỉ mỏng manh, rồi vợ chồng mỗi người nắm một đầu dây kéo mạnh. Sợi dây đứt, coi như đã hoàn tất thủ tục ly hôn.

Ly hôn qua bưu điện: để tạo thuận lợi cho những cặp vợ chồng tình nguyện ly hôn, chính quyền địa phương bang California của Mỹ đã quy định một đạo luật cho phép “Ly hôn qua đường bưu điện”. Những cặp vợ chồng muốn ly hôn chỉ cần qua con đường bưu điện, nộp cho chính quyền 40 đô-la Mỹ là được phê chuẩn.

Còn nhiều kiểu ly hôn kỳ lạ khác, nhưng thời gian đã hết”.

Viết ra thì như vậy, nhưng thực ra khi tôi kể thì còn lúng túng lắm, và có rất nhiều chỗ sai, nhất là địa danh và tên người… nhiều lúc ba tôi không nhịn được, cười ngặt nghẽo.

 

Ngày 2 tháng 7. Thứ hai (tiếp) 

 

Sau khi tôi kể xong, thì đến lượt Ương Ương. Bạn ấy cũng chọn lấy một chuyện trong cuốn “Bí mật” như trên tôi vừa nói. Câu chuyện bạn ấy kể là chuyện một người có sáu chiếc dạ dày, chùm truyện “Những điều bí ẩn trên cơ thể con người”. Đây cũng là một chuyện lạ. Một bệnh viện ở Java, Indonesia, vừa mới nhận vào một bệnh nhận nam, khả năng ăn uống của anh ta thật kỳ lạ. Suốt ngày lúc nào cũng kêu đói, vớ được cái gì là ăn ngấu ăn nghiến, thậm chí còn ăn cả tấm ga trải giường. Nhân viên phục vụ vừa ngạc nhiên vừa tức giận. Chưa phát hiện ra anh ta mắc bệnh gì, họ đã nhất trí đuổi anh ta ra khỏi bệnh viện…

Tài diễn thuyết của Ương Ương cũng chẳng hơn tôi là mấy, có điều năm tháng và địa đanh bạn ấy nhớ hơn tôi.

Đây là lần đầu tiên chúng tôi tập “diễn thuyết”, tuy chưa thật vừa ý, nhưng rất vui.

 

(Đình Nhi rất có tài ăn nói, chính nhờ ngay từ nhỏ cháu đã được huấn luyện khá công phu. Trọng tâm giáo dục: Hình thức gọi là “diễn thuyết” này cũng là một phương pháp huấn luyện rát tích cực cho khả năng thông báo tin tức, phát biểu ý kiến trước hàng trăm con mắt đang theo dõi, thế nhưng thái độ người diễn thuyết vẫn bình tĩnh, ung dung, nói năng chủ động lưu loát và dòng suy nghĩ không hề lẫn lộn. Sau này, khi được phỏng vấn tại Mỹ, Đình Nhi đã phát huy rất tốt khả năng này).

 

KHÔNG GẶP THẦY GIỎI, VẪN PHẢI LÀ MỘT TRÒ GIỎI

Theo chúng tôi được biết, và cũng qua thực tế học tập của Đình Nhi, tuyệt dại các thầy cô giáo mà chúng tôi đã gặp đều yêu ngành yêu nghề, hết lòng vì học sinh. Cho đến nay chúng tôi vẫn luôn kính trọng và biết ơn các thầy cô giáo đó. Có rất ít các thầy cô giáo vẫn chưa thực sự tận tâm với nghề nghiệp, gặp phải những thầy cô giáo đó, quả là điều không may mắn đối với học sinh. Nhưng nếu các bậc cha mẹ có những biện pháp hữu hiệu để bù đắp lại những sự thiệt thòi đó, thì con cái họ vẫn có thể trở thành trò giỏi, con ngoan.

Mấy năm đầu bậc tiểu học, Đình Nhi chưa gặp được vận may. Do sự tiếp nhận học sinh theo địa bàn đăng ký hộ khẩu, nên không được vào học ở một trường như ý muốn, chật vật lắm mới xin được vào một trường tiểu học loại trung bình, nhưng lại không may gặp phải một cô giáo ngữ văn kiêm chủ nhiệm lớp, môt cô giáo chưayên tâm với nghề dạy học. Để đỡ phải chấm bài, trong cả hai năm lớp 2 và lớp 3, phần lớn bài tập ở nhà của học sinh, cô đều cho chép lại nguyên xi bài khoá.

Để giữ uy tín cho cô, tôi luôn thúc giuc Đình Nhi phải cố gắng hoàn thành những nhiệm vụ học tập ít hiệu quả ấy. Dẫu sao, đối với học sinh tiểu học, thói quen tôn trọng thầy cô giáo còn quan trọng hơn cả những kiến thức mà các cháu học được ở thầy cô. Quyết không thể vì một sự thiếu trách nhiệm của một thầy cô nào đó, để Đình Nhi coi thường cả những yêu cầu đúng đắn của các thầy cô giáo nói chung. Chỉ khi nào việc làm của Thầy cô giáo có ảnh hưởng xấu trực tiếp đến học sinh, chúng tôi mới răn đe con cái bằng cách “việc này ba mẹ sẽ trực tiếp đến xin với thầy cô giáo”, chứ không cho phép con tự ý chối bỏ những đòi hỏi của thầy cô. Ví như, cuối học kỳ II lớp 2, trước khi thi cô chủ nhiệm yêu cầu học sinh phải chép lại bài khoá của cả một học kỳ. Một mệnh lệnh rất không hợp lý như vậy, đương nhiên là chúng tôi không thể để cho Đình Nhi chấp hành. Nếu không còn thời gian đâu để học các bộ môn khác, kết quả thi cử sẽ thế nào. Nhưng khi giải thích cho ĐÌnh Nhi, tôi không bình phẩm và cũng không tỏ thái độ phản đối, chỉ nói: “Mẹ sẽ viết giấy xin với cô giáo cho con được miễn chép bài khoá mà chỉ tập trung học “từ mới”, vì mặt đó còn quá yếu. Chắc cô giáo sẽ đồng ý thôi”.

Do trong cả năm, việc dạy dỗ học sinh của cô chủ nhiệm chưa làm hết trách nhiệm, cho nên kết quả thi của bộ môn do cô phụ trách không được như ý. Vì vậy, cô đã tìm cách tăng điểm cho học trò bằng biện pháp căn cứ vào năng lực học tập thực tế và tinh thần hăng hái phát biểu ở trên lớp của một số học sinh. Do đó, kết quả ngữ văn cuối học kỳ II lớp 2 của ĐÌnh Nhi thực tế chỉ khoảng 90 điểm, cô đã tăng cho thành 98 điểm.

Để cho Đình Nhi có nhận thức đúng về kết quả thi cử của mình, hôm nhận được giấy báo kết quả thi, chúng tôi đã phải giải thích ngay theo hướng tích cực cho Đình Nhi về việc làm của cô giáo: Cô giáo tăng điểm cho con vì con thi quá kém (hồi đó học sinh lớp 1, lớp 2 phải đạt 95 điểm mới được coi là thi đỗ). Cô sợ con chán nản buồn phiền. Sau đó tôi hỏi cháu: “Khi thi vào đại học, liệu có ai dám mạnh tay cho con thêm điểm không?” Đình Nhi suy nghĩ rồi nói: “Chắc không mẹ ạ!” Ba nói thêm: “Không những không, mà chỉ cần thiếu nửa điểm tên con đã phải đứng dưới hàng trăm ngàn bạn khác. Cũng như vậy con chỉ cần cố lên nửa điểm, tên con cũng sẽ đứng trên hàng trăm hàng ngàn bạn khác rồi. Trên thực tế, hàng năm chỉ vì hơn kém nhau nửa điểm mà đã có hàng trăm hàng ngàn thí sinh hoặc thi đỗ đại học hoặc thi trượt”.

Tôi nói với ĐÌnh Nhi: “Muốn có được kết quả thi thật tốt, thì tự mình phải đặt ra những yêu cầu thật cao. Thời xưa ở trung quốc đã có một câu nói rất hay rằng: “Pháp hổ kỳ thượng, đắc kỳ trung dã…”” Ba liền giải thích: “Câu nói đó có nghĩa là: đặt ra yêu cầu thật cao, kết quả việc làm có thể chỉ ở loại trung bình; đặt ra yêu cầu ở mức trung bình, thì kết quả làm việc chỉ ở loại kém…”. Sau ba còn lấy một vài dẫn chứng cụ thể để chứng minh câu nói đó là đúng… Đình Nhi sau sưa nghe, nghe xong liền biểu thị quyết tâm: “Con cũng sẽ pháp hổ kỳ thượng…”. Tôi mừng quá ôm chặt con vào lòng, khen con có ý chí và bảo: “Để con có thể “Pháp hổ kỳ thượng”, mẹ sẽ dẫn con đến học tập kinh nghiệm của anh Lý Hưởng”.

Lý Hưởng là con trai một người bạn đồng nghiệp của tôi, cháu rất say mê học tập, điểm học tập và điểm đạo đức đều xếp loại giỏi. Đầu năm nay, cháu vừa được nhà trường tiến cử cho đi học tại một trường trung học trọng điểm vào loại số một, số hai của tỉnh Tứ Xuyên. Sau này, sau sáu năm học tập tại trường trung học, Lý Hưởng đã được trường Đại học Bắc Kinh tuyển thẳng vì có thành tích học tập xuất sắc, đứng thứ ba trong kỳ thi giỏi văn toàn tỉnh Tứ Xuyên. Mẹ cháu, cô giáo Ngô rất có kinh nghiệm cả trong việc dạy học ở trường và giáo dục con cái ở nhà. Cứ mỗi kỳ nghỉ phép hàng năm, tôi đều dẫn Đình Nhi đến nhà anh Lý Hưởng chơi, để cháu được người thực việc thực. Những lời khuyên bảo của cô giáo Ngô và những bài học sống động của anh Lý Hưởng đã giúp Đình Nhi giảm được bao đoạn đường vòng. Hơn nữa, còn tập cho cháu một thói quen: thấy người hơn mình phải chủ động khiêm tốn học hỏi và luôn lấy họ làm gương để noi theo.

Cô giáo Ngô nói với Đình Nhi, năm lớp 3 là năm đã có sự phân hoá rõ rệt về trình độ của học sinh. Nguyên nhân của sự phân hoá đó là do tố chất trí lực của từng người và cơ sở tri thức do hai năm lớp 1 và lớp 2 tạo dựng nên. Để khắc sâu ấn tượng cho Đình Nhi, tôi cố ý hỏi cô giáo Ngô: “Theo cô, cơ sở của bộ môn ngữ văn là gì?” Cô trả lời: “Cơ sở của môn ngữ văn không có gì khác ngoài ba việc: học chữ, ghép từ và đặt câu”. Tôi lại hỏi: “Phải chăng học sinh chỉ phải nghe thầy giảng là đủ, còn muốn làm một học sinh xuất sắc thì phải biết chủ động mở rộng kiến thức của mình”.

Tiếp lời cô, tôi hỏi lại Đình Nhi: “Con cũng đang phấn đấu để được là học sinh xuất sắc, đúng không? Vậy thì kỳ nghỉ phép này, hai mẹ con sẽ tập trung luyện tập ghép từ và đặt câu nhé”.

Tác dụng tích cực của một tấm gương sáng và những lời gợi mở của các bậc phụ huynh, xưa nay luôn là một sức mạnh dư luận, hiệu quả nhất. Trong không khí cởi mở ấy, Đình Nhi đã tiếp thu một cách thoải mái và vui vẻ.

Sau khi tư tưởng đã thông, nhiệt tình học tập ngữ văn đã có, trong kỳ nghỉ hè của lớp 2, hằng ngày Đình Nhi vẫn theo tôi đến cơ quan. Tôi ngồi đọc bản thảo, còn ĐÌnh Nhi ngồi bên cạnh, tập ghép từ. Tôi yêu cầu cháu, mỗi chữ phải ghép được 4 từ. Mỗi khi bí không nghĩ ra được, cháu lại xin mẹ “cho vay từ”. Cũng có thể chỉ ghép được một hay hai từ, tôi cũng giải thích cho cháu về trường hợp đặc biệt này.

Trên đường đi làm hoặc trở về nhà, rồi cả những khi tôi bận làm cơm, cháu thường quanh quẩn bên tôi, tay vẫn cầm quyển vở tập ghép từ, lấy những từ đã ghép tập đặt câu. Mỗi khi hiểu lầm nghĩa của từ hoặc đặt câu sai, tôi thường ngắt lời cháu, giảng giải tại chỗ. Sau đó bắt cháu nhắc lại cho tôi nghe. Tôi còn có quy định mới với Đình Nhi: nếu nghe được từ mới nào hoặc một cách nói mới, cháu phải tự giác nhắc lại ba lần.

Việc tự học trong kỳ nghỉ hè này thật có hiệu quả. Cháu không chỉ học được các từ một chữ tạo ra bốn từ mới để nắm được tính đa nghĩa của mỗi chữ Hán, mà còn hình thành được quan niệm: “Kỳ nghỉ hè chính là một “trạm tiếp dầu” quan trọng để đi tiếp những chặng đường sắp tới”. Sau này cứ mỗi kỳ nghỉ hè, Đình Nhi đều nuôi một hy vọng: “Phải có một bước tiến mới trong kỳ nghỉ hè này”, để cố gắng hoàn thành những nhiệm vụ học tập mà cha mẹ giao cho.

Cũng cần nói thêm rằng, ngoài những bài tập do nhà trường quy định, không bao giờ chúng tôi giao cho cháu những bài tập tương tự, mà bằng các hình thức luyện tập khác nhẹ nhàng và rất có hiệu quả, cố gắng giúp Đình Nhi phát triển các kỹ năng học tập. Về việc này, sau đây còn có dịp kể tỉ mỉ hơn.

RÈN LUYỆN TỪNG PHẦN,

BIẾN HẤP TẤP VỘI VÀNG THÀNH THẬN TRỌNG

Theo chủ trương của ba: mỗi giai đoạn chỉ nên giải quyết một vấn đề chủ yếu. Làm thế nào để xác định được mục tiêu chủ yếu trước mắt? CHúng tôi thường vận dụng “lý luận thanh gỗ ngắn”: một chiếc thùng gỗ có thể chứa được bao nhiêu nước, là do thanh gỗ ngắn nhất trên thành thùng quyết định, nối dài thanh ngắn đó, thì rõ ràng dung lượng đó tăng lên.

“Lý luận thanh gỗ ngắn” rất có tác dụng, đã mau chóng trở thành công cụ lý luận quen thuộc của Đình Nhi. Chúng tôi và cháu thường xuyên cùng tìm ra “thanh gỗ ngắn” ở cháu, thiếu đâu bù đấy, tìm mọi cách để nối dài “thanh gỗ ngắn” đó.

Ở những năm đầu  bậc tiểu học, một trong những “thanh gỗ ngắn” của Đình Nhi là tính hấp tấp vội vàng. Nhìn chung, các cháu bé thông minh nhanh nhẹn, thường thiếu sự kiên trì thận trọng. Rõ ràng có thừa khả năng làm một bài tập, thế nhưng chỉ vì một vài sai sót nhỏ mà bị mất điểm. Điều này chứng tỏ sức tập trung chú ý trong đại não của cháu còn thiếu sự kiên trì và bền bỉ. Do đó gây trở ngại cho việc nâng cao trình độ chung.

Sự hấp tấp vội vàng của Đình Nhi chủ yếu thể hiện ở cách tính toán, mỗi lần thi đều mắc phải những sai lầm do hấp tấp vội vàng, làm cho môn toán ít khi đạt được điểm tối đa. Hoặc là nháp đúng rồi, nhưng chép lại thì sai, như viết 35 thành 53; hoặc là phức tạp thì không sai mà đơn giản thì lại sai, như 3 + 2 = 8; hoặc là khi cộng trừ, chữ số không đặt thẳng hàng, số thập phân quên không đánh dấu phẩy…

Sau khi phân tích kỹ một vài trường hợp sai lầm trong bài làm và bài thi của Đình Nhi, chúng tôi đã rút ra được một kết luận quan trọng: Sự “hấp tấp vội vàng” của ĐÌnh Nhi không phải vấn đề thái độ mà là năng lực. Đã là thiếu năng lực thì không thể chỉ dựa vào phê bình và quở trách, mà phải dựa vào những biện pháp rèn luyện hữu hiệu.

Thế là, trong kỳ nghỉ hè của lớp 3, ba đã lập ra cho Đình Nhi một chương trình rèn luyện chuyên biệt nhằm tạo thói quen luôn thận trọng tỉ mỉ cho Đình Nhi: tập chép lại số điện thoại.

Ba lấy ra một cuốn “Danh ba điện thoại của thành phố Thành Đô” đã quá hạn, lật ra một trng nào đó, rồi nhìn đồng hồ bấm giây, yêu cầu ĐÌnh Nhi phải chép thật nhanh, xem trong 1 phút chép được bao nhiêu số. Ba quy định “tay trái chỉ vào số, tay phải chép thật nhanh”, hết một phút đồng hồ dừng lại. Sau đó cho ĐÌnh Nhi tự đối chiếu, nếu có chỗ sai thì phải luyện thêm 10 phút nữa. Nếu 3 lần đầu chép đúng, thì coi như đã hoàn thành nhiệm vụ trước kế hoạch.

Hình thức rèn luyện này không có thưởng, nếu có thưởng thì cũng chỉ là một tràng vỗ tay của ba khi Đình Nhi chép không sai, và khi chép sai thì cả hai ba con đều suýt xoa hối tiếc. Như vậy, chính bản thân sự tiến bộ trong rèn luyện đã là nguồn vui của cả hai cha con. Cùng giống như sự phấn đấu vươn lên trong học tập và trong các kỳ thi đấu của Đình Nhi sau này, bản thân thành tích tốt đã là một phần thưởng quý báu rồi, phần thưởng vật chất có thể có, có thể không; không thành vấn đề quan trọng.

Tôi cho rằng, phương thức “cùng luyện tập” vốn không mâu thuẫn với việc rèn luyện thói quen độc lập làm bài. Bởi vì khi luyện tập chuyên biệt, vai trò của người lớn là một “huấn luyện viên ngoài sân cỏ”; mục đích là trong một thời gian ngắn phải thành thục được một kỹ năng nào đó.Nếu không có sự tham gia của người lớn, thì việc luyện tập này sẽ trở thành khô khan tẻ nhạt, ngay cả những đứa trẻ lớn tuổi, nếu khả năng tự kiềm chế còn kém cũng khó mà kiên trì luyện tập được lâu, đừng nói gì đến các cháu học sinh mới tám, chín tuổi. Nhưng chỉ cần có sự tham gia của người lớn, công việc luyện tập khô khan tẻ nhạt kia lập tức biến thành một trò chơi đầy hứng thú, các cháu sẽ vui vẻ kiên trì tự thử sức mình. Cần chú ý là thời gian cho mỗi lần huấn luyện không được quá dài, tốt nhất “kết thúc khi còn đang hứng thú”.

Cuộc huấn luyện chuyên biệt đầu tiên (chép số điện thoại) chủ yếu rèn luyện cho Đình Nhi một kỹ năng “sao chép thật nhanh và chính xác”. Cuộc huấn luyện chuyên biệt thứ hai là: cộng trừ các con số trong bộ bài tú-lơ-khơ, mục đích là rèn luyện kỹ năng “tính nhẩm nhanh và chuẩn xác”.

Một lần tình cờ chúng tôi đọc cuốn “Tuần báo văn trích” trong đó có chuyện: Một gia đình con cái đều giỏi toán, có đến mấy người con đều được giải thưởng trong các cuộc thi toán Olymlic. Các người con giỏi toán này đều sử dụng biện pháp tính nhẩm quân bài tú-lơ-khơ với tốc độ nhanh để rèn luyện đầu óc toán học của mình. Biện pháp là: trước tiên loại bỏ đi các quân bài J, Q, K trong bộ bài, sau đó tráo trộn bài lên, bấm đồng hồ, bắt đầu cộng nhẩm các con số ở những quân bài được lật lên, xem trong thời gian nhất định cộng được bao nhiêu quân bài.

Ba bấm đồng hồ để cho Đình Nhi luyện tập theo cách đó. Lúc bắt đầu, tay chân Đình nhi cứ cuống cả lên, cộng đến mấy chục giây đồng hồ mà vẫn cứ cộng sai. Chỉ sau mấy ngày ngắn ngủi ba cùng luyện tập với Đình Nhi, tốc độ chính xác đã tăng lên rõ rệt. Trên cơ sở đó ba còn dạy cho Đình Nhi những thủ thuật để tăng nhanh tốc độ. Sau hơn 10 ngày, ĐÌnh Nhi đã có thể cộng hết các con số trong bộ bài chỉ trong mấy giây. Sau này ĐÌnh Nhi đã coi việc luyện tập này là một trò chơi “thể dục đầu óc”, mỗi ngày đều cộng trừ nhẩm quân bài đến ba lần, đến mức không cần để đầu óc suy nghĩ lắm, nhưng vẫn cứ làm đúng. Loại hình thể dục đầu óc này được duy trì đến những năm theo học sơ trung. Đương nhiên, quân bài đã được tăng lên đến con số 40, và hình thức cộng vào đã chuyển sang trừ đi. Tốc độ tính toán của Đình Nhi quả thực đã làm tôi hoa mắt. Mục tiêu nâng cao tính chuẩn xác trong tính toán đã đạt được đúng kỳ hạn, ba và Đình Nhi đều vui mừng khôn tả.

NHỮNG CÂU CHUYỆN MỚI CỦA BA

ĐÃ GÓP PHẦN NHÀO NẶN NÊN TÂM HỒN CON GÁI

Trương Hân Vũ có biện pháp tốt về mặt nâng cao kỹ năng học tập cho con, nhưng anh luôn nhấn mạnh, kỹ năng thuộc phạm trù "pháp luật" cũng tức là khôn khéo và thủ thuật. Trong mối quan hệ giữa "đức" và "tài", phải luôn giữ vững nguyên tắc "chân thành là gốc, khôn khéo là ngọn". Vì vậy, điều mà anh băn khoăn suy nghĩ nhiều nhất là làm thế nào để xây dựng tâm hồn Đình Nhi.

Ba là người đã nhiều năm nghiên cứu về tâm lý tuổi nhi đồng, ba hiểu rất rõ kể chuyện là một thủ thuật quan trọng để dẫn dắt tâm hồn trẻ thơ. Khi vừa mới nhập vào gia đình chúng tôi, ba còn chưa biết khả năng tiếp thu của Đình Nhi ra sao, ba định tìm những câu chuyện có trên giá sách của ĐÌnh Nhi. Ở đây có rất nhiều tác phẩm nổi tiếng về đồng thoại và những cuốn truyện dân gian trong và ngoài nước. Nhưng hễ ba cứ cầm bất kỳ cuốn nào lên, ĐÌnh Nhi lại ra sức lắc đầu như một con lúc lắc: "Truyện này con nghe kể rồi, truyện kia con cũng nghe rồi, con còn biết kể lại nữa cơ. Con muốn nghe những câu chuyện mới!"

Thế thì ba biết cách rồi. Suy nghĩ một lát, rồi ba kể cho Đình Nhi nghe chuyện "Yến tử đi sứ nước Sở", một câu chuyện lịch sử mà Đình Nhi chưa được nghe bao giờ. Con người thấp bé, cực kỳ thông minh và khôi hài của nước Tề ấy, với một tấm lòng trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, ông đã đập tan mọi âm mưu thâm độc muốn gây khó khăn và làm nhục nước Tề của cả bọn vua tôi nước Sở, bảo vệ sự tôn nghiêm của Tổ quốc, hoàn thành xuất sắc sứ mệnh đi sứ của mình.

Đây là câu chuyện đầu tiên ba kể cho ĐÌnh Nhi nghe. Đến những đoạn gay cấn, ĐÌnh Nhi cứ tròn xoe đôi mắt, thấp thỏm lo sợ cho vị sứ giả có dáng người thấp bé của nước Tề, một mình giữa bầy lang sói. Và Đình Nhi đã cười như nắc nẻ khi ba kể đến những đoạn khôi hài. Những khái niệm mới như: tình yêu Tổ quốc, lòng tin vào sức mạnh trí tuệ của loài người, sự tôn nghiêm của nhân cách, tinh thần bất chấp mọi gian nguy để hoàn thành sứ mệnh thiêng liêng... cũng là những phẩm chất mà ba luôn mong muốn ĐÌnh Nhi có được, tất cả những cái đó như những hạt mưa lặng lẽ tưới mát tâm hồn non nớt của Đình Nhi.

Vốn có tầm nhìn xa, ba chủ trương: những món ăn tinh thần mà chúng tôi cung cấp cho Đình Nhi phải là những món ăn được lấy từ kho tàng văn hoá vô cùng phong phú của Trung Quốc và phương Tây, hơn nữa biết kết hợp hài hoà những tinh hoa của hai nền văn hoá ấy, nhào nặn nên một thế giới nội tâm hoàn mỹ nhất cho ĐÌnh Nhi.

Theo cách suy nghĩ đó, ba đã chọn lựa từ trong những bộ sách của mình, tìm ra những món ăn tinh thần bổ ích cho Đình Nhi. Đồng thời ba cũng tự đặt ra cho mình những nguyên tắc như sau:

1. những câu chuyện kể phải là những chuyện về người thật việc thật lấy từ các tác phẩm nổi tiếng cổ kim đông tây, mà ảnh hưởng của nó làm cho con cái suốt đời không quên.

2. Dù chuyện là bi hay hài, nhân vật chính là chính nghĩa hay phi nghĩa, nhưng hướng đi của câu chuyện phải là hướng đi lên, quyết không để cho con có thái độ tiêu cực sau khi đọc những câu chuyện đó.

Theo dự tính đó, ba thực sự bắt tay vào việc, trong đầu ba hiện lên cả một danh mục dài các câu chuyện dự định kể.

Ba chọn truyện, tưởng chừng như rất dễ dàng, nhưng kỳ thực đều đã phải trải qua một sự sàng lọc rất kỹ càng. Như khi kể câu chuyện thứ nhất cho Đình Nhi nghe, trong đầu óc ba lúc ấy hiện lên rất nhiều câu chuyện nói về những con người thông minh trác tuyệt xưa nay ở Trung Quốc, nhưng ba lại chọn câu chuyện "Yến Tử đi sứ nước Tề", bởi vì ba không muốn sau này ĐÌnh Nhi sẽ trở thành một con người hẹp hòi ích kỷ, vụn vặt mà thiếu đi một lý tưởng cao cả, một ý chí quật cường. Ba nói: trong cuộc sống thực tế, loại người hẹp hòi ích kỷ ấy sẽ không làm nên trò trống gì, còn thua cả những thằng ngốc, nhưng biết chân chất làm ăn.

Suốt sáu năm ròng rã ba kể cho ĐÌnh Nhi nghe biết bao nhiêu chuyện. Trước khi Đình Nhi học sơ trung phải vào ở hẳn trong trưòng, thì nghe ba kể chuyện là một nội dung không thể thiếu trong cuộc sống của Đình Nhi.

Khi kể chuyện ba thường không câu nệ cứ phải kể đều đều từ đầu đến cuối mà nắm chắc trọng điểm, hoặc những tình tiết có ý nghĩa nhất đối với Đình Nhi. Ở những đoạn này, ba đã dùng phương pháp "đặc tả" để khắc sâu ấn tượng cho Đình Nhi.

Khi kể chuyện danh tướng chống Nhật Thích Kế Quang, ba nhấn mạnh vào đoạn kể về thời niên thiếu của ông... Một hôm cậu bé Kế Quang đi một đôi giày mới rất đẹp, cậu thích chí đi qua cửa nhà khách, không ngờ cha cậu trong thấy, gọi giật lại. Cha nghiêm mặt quở trách: "Mới tí tuổi đầu mà đã thích ăn diện như vậy, cha thật không bằng lòng. Tuổi nhỏ đã thế này, lớn lên có tí chức quyền tránh sao khỏi tham lam, tàn ác, ăn chơi đàng điếm". Nói rồi cha bắt tháo giầy ra, xé nát ngay trước mặt để răn thói xa hoa, chưng diện.

Đối với ba, kể chuyện cho ĐÌnh Nhi nghe là một công việc vô cùng thích thú. Đình Nhi không phải là một "chiếc đồng hồ vô thức trên nóc nhà nghị việnAnh quốc", cứ đánh thì mới kêu, mà là một "tờ giấy trắng trong", một chút ánh sáng li ti cũng chiếu lọt.

"Tiết mục kể chuyện trên giường ngủ" kéo dài gần sáu năm, cho đến khi Đình Nhi vào học trường ngoại ngữ, phải nội trú mới kết thúc. Nhưng những đạo lý mà ba đã dày công truyền thụ cho Đình Nhi qua những câu chuyện sinh động và hấp dẫn kia thì ngày càng ăn sâu bám rễ trong lòng ĐÌnh Nhi.

TẬP VIẾT CẢM TƯỞNG SAU KHI ĐỌC SÁCH,

PHÁT TRIỂN TƯ DUY LÝ TÍNH

 

Mùa hè năm lớp 3, tôi yêu cầu ĐÌnh Nhi, mỗi bài nhật ký phải viết tới 500 từ. Một hôm, trời rất nóng, ngoài việc đọc sách và làm bài tập, Đình Nhi không muốn làm thêm một việc gì nữa. Chau buồn rầu hỏi tôi: "Mẹ ơi, nhật ký hôm nay viết cái gì nhỉ?" Tôi gợi ý: "Sao con không viết cảm tưởng của con về cuốn sách hôm nay con vừa đọc?" Đình Nhi lập tức vui ngay, bắt tôi dạy cho cách viết.

Tôi bảo cháu, trước tiên hãy viết về các nhân vật trong sách mà con có ấn tượng sâu sắc nhất, cứ viết như con đang kể chuyện cho bạn nghe. Tôi nói với Đình Nhi, con nên tham khảo phần "Lời mở đầu' và phần  "Vĩ thanh" trong mỗi cuốn sách, ở đó nói chung đều có lời giới thiệu bình luận về cuốn sách đó của các nhà phê bình. Con có thể hoàn toàn viết những suy nghĩ của con, cũng có thể mượn lời bình luận ở những phần trong sách. Phải chú ý xem các tác giả đã tóm tắt giới thiệu các nhân vật và các tình tiết trong sách một cách chuẩn xác, bằng ngôn ngữ chắt lọc như thế nào, nhưng dẫu sao tốt nhất là nên dùng lời của mình để viết.

Từ trước tới nay, trẻ em đọc sách thường chỉ chú ý đến cốt truyện, chẳng mấy khi để ý đến các phần "Lời nói đầu" và "Vĩ thanh" trong sách. ĐÌnh Nhi cũng vậy, nhưng để viết được cảm tưởng, Đình Nhi bắt đầu chú ý đọc các phần bình luận văn học cô đọng như trên. Để tìm được những nội dung cần thiết trong một bài bình luận hàng nghìn chữ ấy, Đình Nhi không chỉ đọc một lần mà có được, hơn nữa còn phải còn phải biết sàng lọc, lựa chọn. Điều này không chỉ trực tiếp giúp Đình Nhi hiểu sâu hơn về ý đồ sáng tác của tác giả, còn giúp cháu làm quen trước với kiểu văn nghị luận, và quan trọng hơn cả là nó thúc đẩy mạnh mẽ quá trình phát triển tư duy lý tính của ĐÌnh Nhi. Trên thực tế, bài tự thuật của Đình Nhi viết khi dự thi vào Trường Đại học Harvard là một thể văn kết hợp giữa văn tự thuật và văn cảm tưởng.

So sánh giữa hai bài văn cảm tưởng mà ĐÌnh Nhi viết sớm nhất với hai bài văn cảm tưởng viết cuối thời tiểu học của ĐÌnh Nhi, có thể thấy rõ tư duy lý tính của Đình Nhi dần dần thành thục.

Ngày 6 tháng 7 năm 1990. Chủ nhật. Trời hửng nắng.

"Bóng ma trong mộng"

Tôi vừa đọc cuốn truyện nổi tiếng "Bóng ma trong mộng". Đây là cuốn sách đồng thoại rất thú vị do nhà văn nổi tiếng Frank Bame sáng tác. Những nhân vật chủ yếu trong cuốn sách này là: Tayfoo, Jack Bí ngô, Tiều phu thép và người nôm rơm...

Tayfoo sinh ra tại vùng Ause, nhưng lại sống tại đất nước Người tím ở phương Bắc. Ở đây tất cả mọi thứ đều màu tím. Tôi rất thích cậu bé Tayfoo này, vì bạn ấy thật tốt bụng và thật thà, căm ghét sự gian tà quỷ quái và sống bình đẳng với mọi người...

Jack Bí ngô là một nhân vật có cái đầu được làm bằng quả bí ngô, trên đó có khắc đủ mắt, mũi, mồm. Cái đầu ấy được cắm trên một thanh gỗ dài làm thân mình và chân tay. Tayfoo cho nó hình thể, còn Lawmobie cho nó tâm hồn. Tôi thấy nhân vật Jack Bí ngô rất hài hước, suốt ngày luôn lẩm bẩm những câu nói của ra đâu vào đâu. Hơn nữa các khớp tay chân hay bị hỏng và bàn tay thỉnh thoảng lại rụng rời, trông thật buồn cười.

Còn Tiều Phu Thép là một nhân vật được tạo thành bởi các mảnh sắt nhỏ hàn gắn lại. Nó có mặt trái tim bằng một cục gỗ tròn sơn đỏ, trái tim, ấy là do một thầy phù thuỷ tặng. Tôi rất thích Tiều Phu Thép, vị hoàng đế của vương quốc Người Vàng này, bởi vì trong suốt cả câu chuyện, Tiều Phu Thép luôn tỏ ra hiền lành đôn hậu, ưa làm việc thiện và dũng cảm đấu tranh với kẻ ác. 

 

Ngưòi nộm rơm là một hình nộm bên ngoài làm bằng vải, bên trong được nhét đầy rơm, cái đầu của nó được nhét đầy mùn cưa và đinh sắt, thầy phù thủy cho nó cái đầu này. Tôi rất khâm phục Người Nộm Rơm, bởi vì trong lúc nguy hiểm, cái đầu của Người Nộm Rơm đã nghĩ ra được khá nhiều biện pháp để giải quyết. 

 

Đây là những nhân vật để lại cho tôi nhiều ấn tượng nhất trong cuốn sách này. Ở đây còn có những nhân vật khác nữa như Con Nắc Nẻ, Ngựa Cưa Gỗ... Nhưng vì bài nhật ký này đã hơn 500 từ rồi, tôi không viết nữa.

Ngày 9 tháng 7 năm 1990. thứ hai. Trời mưa to.

Nếu tôi cũng có được một viên thuốc ước...

Thuốc ước là một loại thuốc vô cùng kỳ diệu trong cuốn truyện "Bóng ma trong mộng". Đã có viên thuốc ấy, chỉ cần uống xong rồi bắt đầu kẹp đôi từ 1 đến 17, sau đó nói lên ước nguyện của mình, thì lập tức ước nguyện ấy trở thành hiện thực. Thế nhưng đếm kẹp đôi đến số 17 cũng không phải là chuyện dễ dàng. Bởi vì 17 là số lẻ, không đếm được đến số 17, thì cũng không thực hiện được ước muốn của mình, làm thế nào đây? Tôi đã nghĩ ra được một cách, tôi bắt đầu đếm từ một nửa của con số 1, rồi lần lượt 1,3,5,7,9,11,13,15,17. Bạn thấy, thật là dễ phải không? 

Tôi nghĩ, nếu tôi có được một viên thuốc ước đó, thì ước muốn đầu tiên của tôi là có được 100 viên như thế. Như vậy tôi có thể có được 100 ước muốn được thực hiện. Và nếu có rồi, tôi sẽ uống tiếp viên thứ hai, đếm đến 17 rồi nói: "Tôi muốn có một bộ quần áo và một đôi giày như của cô gái da đen mặc trong vũ hội". Và ước muốn thứ ba của tôi là: "Tôi muốn trở thành người giàu tri thức nhất thế giới". Ước muốn thứ tư sẽ là: "Ước cho cả nhà tôi mãi mãi trẻ trung, mãi mãi không chết".

Tôi thường hỏi ba mẹ tôi có những ước muốn gì? Ba nói: "Ba muốn sau này sẽ trở thành người có ích". Mẹ nói: "Mẹ muốn con người ta không cần ăn mà vẫn sống được" Sau đó ba lại thay đổi ý kiến, bây giờ ba ước: "Ước cho tất cả những người tốt trên đời đều trở thành những người tài giỏi nhất" Mẹ cũng thay đổi ý kiến, mẹ ước: "Ước cho trên đời này, không có kẻ cắp, không có người xấu bụng". Còn tôi cũng ước thêm: thứ nhất là tất cả sách trên giá của tôi đều biến thành sách mới. Thứ hai là: có rất nhiều tiền, muốn mua cái gì cũng được. 

 

Cuốn sách này mua cách đây đã 3 năm, lúc đó tôi mới học lớp 1, chỉ biết được dăm ba chữ, vì vậy lần đầu tiên tôi biết chuyện này là do mẹ tôi đọc cho nghe.

Ngày 1 tháng 8 năm 1991

Cảm nghĩ sau khi đọc quyển “80 năm thời cận đại”

Nghe nói, trong những năm cuối cùng của triều đại Mãn Thanh, trên một tờ báo của Singapor có vẽ một bức tranh biếm hoạ: bên ngoài một ngôi nhà tranh cũ nát, lơ thơ mấy cây cằn cỗi, xiêu vẹo, ngoài trời mưa rất to, trong nhà nước dội tứ tung. Bên dưới bức tranh có ghi hai chữ “Trung Quốc”. Lúc bấy giờ tôi chẳng hiểu gì, Trung Quốc tại sao lại như vậy? Cho đến tận sau khi tôi đọc cuốn “80 năm thời cận đại”, tôi mới hiểu ra rằng, Trung Quốc trong suốt 80 năm thời cận đại là thưòi kỳ thối nát nhất của xã hội phong kiến. Nó cũng giống như ngôi nhà tranh dột nát kia.

Thời đó, trình độ văn hoá, tư tưởng của người Trung Hoa vô cùng lạc hậu. Bọn thống trị phong kiến vẫn tôn Mạnh Tử và Khổng Tử là những bậc thánh nhân. Những người có chữ nghĩa trong thiên hạ vẫn khư khư ôm những quyển sách cũ nát của Khổng Tử và Mạnh Tử - những vĩ nhân đã sống cách đây hơn 2000 năm, và tư tưởng của họ vẫn dừng lại ở thời kỳ hơn 1000 năm về trước, có chăng chỉ có một chút phát triển không đáng kể. Lúc bấy giờ, người Trung Quốc cũng chẳng hiểu biết gì về thế giới. Họ vẽ bản đồ Trung Quốc theo sự tưởng tượng chủ quan của mình. Họ cho rằng các nước trên thế giới như Anh, Nga… cũng chỉ nhỏ bé như nước Cao Ly (Triều Tiên) mà thôi. Trên tấm bản đồ, Trung Quốc được vẽ ở chính giữa, vẽ rất to, bốn xung quanh là những hòn đảo nhỏ li ti. Đó là những nước Anh, Nga… Có một câu chuyện rất nực cười: Vào những năm niên hiệu Đạo Quang, có một lái buôn người Bồ Đào Nha đến Trung Quốc, khi đi qua hải quan, để nói rõ rằng mình đến đây từ đất nước Bồ Đào Nha, người đó bèn lấy ra một tấm bản đồ thế giới được vẽ theo tiêu chuẩn quốc tế, đưa cho viên quan trấn ải xem. Thế nhưng viên quan này xem không hiểu, bèn dẫn người lái buôn đến phủ. Người Bồ Đào Nha đã cố nhẫn nại chỉ vào tấm bản đồ thuyết minh tỉ mỉ cho các quan trong phủ nghe, nhưng các quan trong phủ vừa trông vào tấm bản đồ đã nổ giận đùng đùng, lớn tiếng quát tháo: “Đây là cái khỉ gì vậy, hãy xem bản đồ của nhà Đại Thanh chúng ta đây!” Nói rồi, họ bèn lấy ra tấm bản đồ Đại Thanh tôi vừa kể. Người Bồ Đào Nha kia trông thấy, thật là dở khóc dở cười!

Vì tư tưởng văn hoá của Trung Quốc quá lạc hậu, cho nên khoa học kỹ thuật cũng chẳng sao tiến bộ được. Trong khi các nước đã có đầy những tàu hoả, tàu thuỷ, súng máy, pháo to… thì Trung Quốc vẫn đang dừng ở thời kỳ sử dụng giáo, mác, xe ngựa và thuyền gỗ…

Do khoa học kỹ thuật lạc hậu, nên nền quốc phòng của Trung Quốc cũng lạc hậu theo. Quân đội Mãn Thanh chỉ có thể đi trấn áp các cuộc khởi nghĩa nông dân, nếu phải đánh nhau với quân đội nước ngoài thì thật là bi thảm. Một thân vương của triều đình Tăng Cách Lâm Tẩm, trong những năm niên hiệu Đạo Quang, đã có lần đem theo hơn 3.000 kỵ binh thiện chiến nhất của triều đình đi giao chiến với quân Anh. Kết quả bị súng to pháo lớn của đối phương đánh cho tan tác tơi bời. Chỉ còn có 7 người, 7 ngựa theo Tăng Cách Lâm Tẩm chạy tháo thân về tới kinh thành.

Tất cả những cái đó đều nói lên rằng, Trung Quốc lạc hậu so với các nước khác. Tình trạng lạc hậu đó là do chế độ chuyên chế của xã hội phong kiến Trung Quốc. Đặc trưng của chế độ chuyên chế là ai nắm được hoàng quyền thì cả đất nước sẽ là tài sản riêng của mình, người ấy muốn sao phải vậy.

 

CHỈ SỢ LÀM ẾCH NGỒI ĐÁY GIẾNG,

ĐI TÌM CƠ HỘI CẠNH TRANH CAO

Được sự chỉ bảo của cha mẹ, Đình Nhi tiến bộ rất nhanh, cuối học kỳ I lớp 4 này chắc chắn sẽ đứng đầu lớp. Chính lúc ấy, cái “lớp 4 vô kỷ luật” của cháu lại ngày càng quậy phá hơn. Vào đầu năm học, nhà trường đã điều một cô giáo dạy văn rất có năng lực về làm chủ nhiệm lớp 4 này. Đến đầu học kỳ II, nhà trường lại bố trí cô thêm chức trưởng phòng hành chính. Các phụ huynh học sinh đều cho như vậy là nhà trường đã bỏ lửng lớp này.

Chúng tôi rất hiểu, do trình độ chung đều thấp, sự “đứng đầu lớp” của Đình Nhi có lẽ chỉ tương đương với các cháu đứng thứ 20 của các trường trọng điểm. Muốn kích thích Đình Nhi có được tiến bộ lớn hơn nữa, cần phải đặt Đình Nhi trong một môi trường có sự cạnh tranh ở trình độ cao hơn. Thế là chúng tôi bắt đầu phải nghĩ đến việc bỏ tiền ra chạy chuyển trường cho cháu. Dù cho là không gặp được thầy giỏi hơn, nhưng ít nhất cũng phải chọn cho cháu một trường gần nhà, mỗi ngày sẽ tiết kiệm được hai giờ đi lại, dành cho cháu tự rèn luyện. Như vậy, cũng đã có lợi cho cháu khá nhiều.

Rất may, vào một ngày cuối tuần, Ương Ương lại đến nhà tôi chơi. Tôi hỏi thăm cháu tình hình học tập, cháu vui vẻ và tự hào nói với tôi: cô giáo chủ nhiệm, Liệu Lệ Quỳnh, là một chủ nhiệm rất giỏi. Lớp cháu được công nhận là “Tập thể ưu tú”, lớp cháu có hai bạn vừa chuyển trường đi… Ương Ương rất thích nhân cơ hội này Lưu Diệc Đình chuyển đến học cùng lớp với cháu.

Trương Hân Vũ vẫn có thói quen “gặp cơ hội tốt không bao giờ bỏ lỡ”. Thế là anh bảo tôi phải lập tức đến nhà Ương Ương để tìm hiểu thêm. Cha mẹ Ương Ương ca ngợi cô chủ nhiệm hết lời. Trương Hân Vũ sau khi nghe tôi kể lại, lập tức quyết định: phải tìm ngay và gặp cô giáo Liệu. Được sự giúp đỡ rất tận tình của cha mẹ cháu Ương Ương, của cô chủ nhiệm Liệu Lệ Quỳnh và cô giáo Lưu Huệ Anh, Trường tiểu học Sở Thương Nghiệp chỉ thu của chúng tôi chút ít tiền lệ phí chuyển trường có tính chất tượng trưng. Và thế là ngay tuần sau Đình Nhi đã được theo học lớp cô giáo Liệu.

Việc chuyển trường lần này có ý nghĩa quan trọng về mặt tâm lý của Đình Nhi, kết quả kiểm tra lần đầu ở lớp mới, Đình Nhi được xếp thứ 17 trong cả lớp. Kết quả đó đã minh chứng cho lời nói của ba mẹ trước đây là đúng: học giỏi số 1 ở “lớp vô kỷ luật” cũng chỉ là “ếch ngồi đáy giếng”.

Hiểu được điều đó, Đình Nhi sẽ biết được tự cao tự mãn là một thói xấu đáng chê. Sau này, đã nhiều lần, Đình Nhi giành được những thành tích mà những người bình thường sẽ thấy rất kiêu hãnh, nhưng cháu không hề bị tính tự kiêu ấy làm cho mờ mắt. Bởi cháu đã quá quen thuộc với quan niệm: “Coi tất cả những thành tích mình giành được mới chỉ là con số 0”. Chỉ có vậy, mới tự thúc đẩy phải cố gắng vươn lên trong những cuộc cạnh tranh ở mức độ cao hơn. Trường tiểu học Sở Thương nghiệp là trung tâm đào tạo học sinh xuất sắc để tham dự các cuộc thi toán Olympic. Đây là kho báu tri thức mà trước khi chuyển trường, Đình Nhi chưa hề biết đến. Sau khi chuyển trường chúng tôi động viên cháu hãy mau chóng nộp đơn xin nhà trường cho vào học lớp đào tạo đặc biệt này. Các thầy cô giáo đều ngạc nhiên: “Hiếm có học sinh ham học như thế này”. Được cô giáo Liệu giới thiệu, thầy Ngô Xuân Dung chủ nhiệm lớp chuyên toán đặc cách tiếp nhận Đình Nhi, vì lớp này đã đào tạo học sinh giỏi ngay từ lớp 2.

Học tập có cường độ có sức hấp dẫn lớn đối với Đình Nhi, việc hướng dẫn cho Đình Nhi về môn vật lý, ba cũng phải vận dụng đến những khả năng sở trường của mình. Chỉ ít lâu sau (cũng giống như Hoa La Canh năm xưa đã đoạt giải “cúp vàng” môn toán thời tiểu học), Đình Nhi lao vào cuộc tranh tài, và kết quả thật bất ngờ: cháu đã đoạt “giải nhất cuộc thi chuyên toán lớp 4”. Lúc bấy giờ tôi còn đang ở bệnh viện Hồ Bắc, chăm sóc mẹ tôi vừa bị mổ khối u trực tràng. Được tin cháu đoạt giải cao, mẹ tôi vui mừng nói: “Đây quả là một liều thuốc đặc hiệu đối với mẹ!”

Có thể nói, chuyển trường và được vào lớp chuyên là một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình phát triển của Đình Nhi. Mặc dù lúc bấy giờ vẫn chưa thể tiên đoán được mọi sự việc sau này, nhưng theo bản năng tôi đã dự cảm được sự phát triển trí lực của Đình Nhi sẽ có bước đột phá quan trọng.

Giải nhất của cuộc thi chuyên toán đã kích thích mạnh mẽ hứng thú học toán của Đình Nhi. Từ đó về sau, ngoài thời gian tất yếu để học văn học ra, Đình Nhi đã dồn phần lớn thời gian cho môn toán với tất cả sự say mê hứng thú. Chúng tôi luôn coi trọng sự cố gắng về mặt này của Đình Nhi. Mặc dù ở trường Đại học, khoa học tự nhiên và khoa học xã hội là những chuyên khoa tách biệt, nhưng ba vẫn luôn nhấn mạnh rằng: những học sinh nào giỏi cả về khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, mới có tiền đồ rộng mở. Huống chi khi thi vào bậc sơ trung, bắt buộc Đình Nhi phải thật giỏi về môn toán, có vậy mới mở được cánh cửa để bước vào các trường trung học trọng điểm.

Việc học tập tại các trường chuyên lớp chọn thực sự là một điển hình cạnh tranh ở trình độ cao, nhất là cuộc đào thải nghiệt ngã cuối lớp 5. Phạm vi cạnh tranh đã vượt ra khỏi cấp nhà trường, nó là cuộc đua tranh giữa các học sinh xuất sắc trong toàn khu vực. Đình Nhi tuy chỉ là một học sinh “giữa đường nhập cuộc” so với các bạn bè trong lớp chuyên, học chậm mất 2 năm 6 tháng, nhưng về môn toán, trong các cuộc thi toán toàn quốc tổ chức vào học kỳ II năm lớp 6, Đình Nhi đã đoạt giải nhì toàn thành phố Thành Đô và đoạt giải ba toàn tỉnh Tứ Xuyên. Một lần nữa lại chứng minh cho câu nói “khổ luyện, tất sẽ thành tài”.

Công sức của Đình Nhi với môn toán trường chuyên, đã được đền đáp. Từ đó, cháu học tiến bộ rất nhanh, thắng hầu hết các đối thủ trong kỳ thi vào sơ trung, đi thẳng vào trường trung học trọng điểm, ngay trong khi học trung học điểm số các môn học đều được xếp loại ưu.

Hiện nay, tại Đại học Harvard, tuy môn Anh văn vẫn chưa bằng các bạn người Mỹ, nhưng kết quả học tập các môn khoa học xã hội và khoa học tự nhiên vẫn vững vàng đứng ở loại giỏi.

 

HỌC TẬP ÔNG BA KIM - CHỮA VĂN TỈ MỈ VÀ THẬN TRỌNG

Cũng giống như toán học, văn học cũng cần có một sự tích tụ lâu dài, nhưng cũng có những kỹ năng có thể đạt được thông qua việc luyện tập chuyên biệt. Để nâng cao hiệu quả, ba yêu cầu Đình Nhi phải triệt để sử dụng biện pháp làm văn miệng. Như vậy, với thời gian làm một bài văn viết, cháu có thể làm được gần chục bài văn miệng. Những bài luyện tập: viết đề cương, tìm chủ đề, miêu tả chi tiết, miêu tả toàn cảnh… Đình Nhi chủ yếu dùng phương thức làm văn miệng, trong suốt cả 3 năm bậc sơ trung.

Trước khi Đình Nhi chuyển trường, tôi đã cho cháu ghi tên tham dự các cuộc “thi tập làm văn cấp tiểu học, cúp Ba Kim”. Tôi dẫn cháu đi thăm “Viện bảo tàng Ba Kim” để cháu tham quan và tìm đề tài để viết. Tuy sau này do chuyển trường cháu đã không ghi tên đăng ký lại nữa, đã mất tư cách dự thi, nhưng những gì tôi chuẩn bị cho cháu trước đây, vẫn có tác dụng bất ngờ: những nét bút chữa văn tỉ mỉ và thận trọng trên những trang bản thảo của Ba Kim đã khiến Đình Nhi xua tan được ý nghĩ: rất ghét rà soát và chữa lại những bài văn đã làm. Một trong những bài văn chuẩn bị gửi đi dự thi của Đình Nhi là bài “Bức thư gửi ông Ba Kim” viết về quá trình chuyển biến tư tưởng của mình.

Ông Ba Kim vô cùng kính yêu!

Thưa ông!

Cháu tên là Lưu Diệc Đình, học lớp 4B trường tiểu học… thành phố Thành Đô. Qua bức thư ông gửi cho các bạn nhỏ ở quê, cháu được biết ông đang ốm nặng, không biết ông đã đỡ chưa? Là một đồng hương bé bỏng, một độc giả nhỏ tuổi của ông, cháu mong ông khoẻ mạnh để sớm trở về nhìn quê hương ngày một đổi mới!

Hôm nay, viết gửi ông lá thư này, cháu muốn nói với ông một điều “bí mật”.

Cháu có một khuyết điểm là rất ghét chữa các bài tập làm văn. Thế mà mẹ cháu lại cứ bắt cháu phải soát lại nhiều lần và sửa chữa, thật chán chết đi được! Có một lần nháp văn, cháu dứt khoát không chịu viết cách dòng, để mẹ cháu hết chỗ mà bắt sửa. Đương nhiên, cuối cùng cháu không thể không viết lại bài văn đó theo yêu cầu của mẹ. Nhưng trong lòng vẫn ấm ức, cháu nghĩ thầm: bản nháp đó chữa hay không chữa cũng chẳng làm sao! Nhưng cháu đã thực sự nhận ra cái sai của mình từ sau khi cháu được tận mắt nhìn thấy các trang bản thảo của ông ở Tuệ Viên.

Hôm đó, tại ngôi nhà Tử Vi Đường cổ kính trong vườn Tuệ Viên, cháu đã nhìn thấy tập bản thảo của ông viết bài “Thay lời kết” trong tập ký sự “Tuỳ tưởng lục” của ông, bày trong tủ kính. Trên những trang bản thảo ấy có rất nhiều chỗ ông đã tự sửa lại câu văn, điều đó làm cho cháu ngạc nhiên, nghĩ bụng: “Sao một nhà văn lớn như ông viết văn cũng cần phải sửa à?” Cháu tò mò lật giở  xem ông đã chữa văn như thế nào. Cháu thấy có chỗ ban đầu ông viết là: “Tôi tự nói với mình…” sau đó sửa lại là: “Tôi phải tự an ủi mình…” Lại một chỗ khác ông đã viết: “Tôi viết rồi lại dừng, cuối cùng…” được sửa lại là: “Tôi viết rồi lại dừng, dừng rồi lại viết, và cuối cùng…” Những câu văn đã sửa rồi, rõ ràng chuẩn xác hơn, sinh động hơn những câu cũ. Cháu đếm thử, trong số trang bản thảo chỉ có 15 dòng, mà ông sửa tới 10 chỗ. Con số này đã làm cháu suy nghĩ rất nhiều. Khi ấy qua những tấm ảnh giới thiệu về cuộc đời ông, cháu đã được biết, ông đã là một nhà văn nổi tiếng có một thành tựu văn chương đồ sộ. Ông đã mấy lần được nhận giải thưởng văn học quốc tế, thế mà đối với văn của mình ông vẫn còn luôn cẩn trọng tỉ mỉ như vậy, còn cháu mới chỉ là một học sinh lớp 4, đang trong thời kỳ cần phải khắc khổ luyện rèn, thế mà cháu viết tập làm văn đã lười tự sửa. Như vậy thì sao có thể thành tài được? Nghĩ đến đây, cháu tự thấy xấu hổ ông ạ.

Từ bấy đến nay, cháu không còn thấy chán công việc sửa văn nữa, những bài tập làm văn của cháu có tiến bộ rõ ràng. Các thầy cô giáo vẫn thường xuyên động viên cháu, còn giới thiệu những bài hay của cháu, gửi đi xin đăng ở chuyên mục “Vườn ươm” trên tờ “Tin buổi tối của Thành Đô”. Nếu bài của cháu được đăng, cháu nhất định sẽ biếu ông tờ báo ấy.

Thưa ông Ba Kim! Ông cố gắng giữ gìn sức khoẻ, đợi tin vui mới của một đứa cháu nhỏ bé ở quê hương, ông nhé!

Kính chúc ông ăn Tết vui vẻ, khoẻ mạnh dài lâu!

Ngày 12 tháng giêng năm 1991

Cháu của ông

Lưu Diệc Đình

Có ý muốn sửa văn, Đình Nhi bỗng cảm thấy vốn từ ngữ của mình sao mà nghèo nàn quá vậy, nhất là khi miêu tả hành động và tâm lý nhân vật. Nhiều lúc cháu đã ra sức cầu xin để được “vay” của mẹ mấy từ cốt sửa câu văn của mình được vừa ý. Tôi bảo cháu: “Con đã tự cảm thấy kho từ vựng của con thật là thiếu thốn, thế sao con không chịu khó nhập hàng?” Đình Nhi vui vẻ nói: “Hay quá, mẹ bảo ngay cho con cách nhập hàng đi!”

Tôi tìm được cuốn “Kỹ xảo viết văn” mà ông ngoại mua tặng tôi từ lâu, bảo Đình Nhi hãy đọc phần bảng từ ngữ sắp xếp theo từng loại trong sách đó. Đọc đến bảng “Thán từ”, Đình Nhi đã phải kinh ngạc trước sự phong phú, tế nhị và truyền cảm tốt của loại từ này. Tôi bảo cháu: “Chỉ cần con thường xuyên cần cù tích luỹ thì chỉ mấy năm sau, vốn từ của con có khi còn nhiều hơn cả trong sách này đấy! Cái nào dùng trước, học trước, các bài tập làm văn ở trường tiểu học chủ yếu là kể chuyện và tả người, vậy thì trong đầu mình phải tích luỹ chuẩn bị trước các loại từ ngữ về mặt này. Có vậy, con sẽ không thấy bí từ khi viết văn”.

Trong kỳ nghỉ đông năm 1991, Đình Nhi đã lấy thời gian viết nhật ký của mấy ngày liền để tích luỹ từ ngữ miêu tả nhân vật. Trong mấy ngày đó, Đình Nhi đã chép được hơn mười trang các từ thuộc loại này.

Cô giáo Ngô cũng đã nói với Đình Nhi: “Bài tập làm văn của học sinh tiểu học chủ yếu để rèn luyện cách vận dụng từ ngữ, không sợ dùng chưa chuẩn xác, mà chỉ sợ vốn từ quá thiếu mà thôi. Từ dùng chưa chính xác thì học lên sơ trung còn phải luyện cho thật hoàn hảo, nếu trong bụng mình chẳng có lấy mấy từ, thử hỏi lấy gì mà luyện?”

 

RỜI KHỎI CỔNG TRƯỜNG,

ĐI NÔNG THÔN, LUYỆN TẬP QUAN SÁT

 

Kỳ thi cuối học kỳ I sau khi chuyển trường, trong bảng xếp hạng, Đình Nhi từ số 17 đã lên đến số 3. Được học lớp chuyên, về môn toán, Đình Nhi đã vươn lên vượt bậc, còn môn văn cũng có những tiến bộ rõ rệt, đó là nhờ sự dẫn dắt của cô giáo Liệu.

Chúng tôi cho rằng, chất lượng dạy học của trường tiểu học khu Thương nghiệp này, cùng với kết quả học năm lớp 4 của Đình Nhi, đã chứng tỏ việc học tập của Đình Nhi đang đi vào quỹ đạo. Trọng tâm của những bước bồi dưỡng tiếp theo là phải chuyển sang mở rộng tầm mắt và tăng cường tri thức xã hội cho Đình Nhi, để tạo cơ sở cho cháu có những bước phát triển tăng tốc sau này.

Trong dịp hè lớp 4 của Đình Nhi, báo chí có đăng tin “Ở ngoại ô Thành đô, gần đây đã hình thành một cánh đồng trồng hoa tươi để cung cấp cho thành phố. Chúng tôi quyết định nhân nghỉ hè cho Đình Nhi đi tham quan những làng trồng hoa giàu chất thi tình hoạ ý đó, để cháu được tận mắt nhìn thấy quang cảnh sinh hoạt của làng hoa ven đô, thu thập một chút tài liệu để làm văn”.

Buổi chiều đi thăm làng hoa đáng nhớ đó đã được ghi lại một cách sinh động và chân thực trong cuốn nhật ký của ĐÌnh Nhi.

 

Ngày 4 tháng 7 năm 1991

Cuộc du hành về làng hoa ven đô

Nghỉ hè tôi và ba mẹ cùng về làng hoa Tam Thánh để ngắm hoa. Tại đây chúng tôi đã gặp được những con người hiếu khách nhiệt tình, và cũng biết được nhiều điều mới lạ, kiến thức của tôi được mở rộng rất nhiều.

Bác nông dân làng hoa

Chúng tôi xuống xe tại Cao Điếm Tử (một dãy phố thuộc làng Tam Thánh) nhìn ra bốn phía, chỉ thấy mấy quán nhỏ lèo tèo bày bán mấy thứ hoa quả lặt vặt như mận, lê và dưa hấu, trên vách liếp của một quán có dán một tờ quảng cáo: thu mua hoa bạch lan nhưng chẳng thấy có một bông hoa nào. Như “phát hiện ra một châu lục mới” tôi mừng rỡ kéo áo mẹ: “Mẹ ơi! Ở  kia bán hoa kìa!” Nói xong, tôi liền chạy vội về phía đó, ba mẹ cũng vội rảo bước đi theo. Ba hỏi cô hàng hoa: “Chị làm ơn cho hỏi ruộng hoa ở chỗ nào ạ?” Cô nói: “Cứ theo con đường này đi chừng năm trăm mét là đến”. Đi chừng non nửa tiếng, chúng tôi đã ra khỏi dãy phố đó, bốn xung quanh là những thửa ruộng rau quả đã xanh rờn, chỉ có điều không thấy hoa đâu. Chúng tôi bàn bạc với nhau xem nên tiếp tục đi hay quay trở về.

Vừa lúc ấy, một bác nông dân ăn mặc xuyềnh xoàng, tay xách làn rau vượt qua bên cạnh chúng tôi: “Chắc các bác đến xem hoa phải không?” Tôi vội trả lời: “Đúng đấy bác ạ! Nhưng làm sao không thấy có hoa?” Bác nói: “Các bác đến không đúng lúc rồi, phải sáng sớm cơ, sáng sớm hoa mới nhiều!” Mẹ lại hỏi: “Thế ruộng hoa ở chỗ nào ạ?” Bác nông dân trả lời: “Ở đây là đội trồng rau, không được trồng hoa, trồng hoa là bị phạt đấy!” Tôi vừa nghe đã thấy buồn cười: “Hừ, ở nhà quê thật lắm chuyện lạ lùng, trồng hoa mà cũng bị phạt”. Ba bảo tôi: “Như thế gọi là kinh tế kế hoạch, con thử nghĩ xem, nếu đất để trồng rau đem ra trồng hoa cả, thì người thành phố lấy rau đâu ra mà ăn?” Tôi hiểu ra, liền bật cười. Mẹ lại hỏi lại bác nông dân: “Thế sao báo chí vẫn nói rằng đây là làng hoa, mà hoa được bày bán ở Thành Đô, phần lớn từ đây chuyển đến cơ mà?” Bác nông dân nói: “Còn một đội nữa chuyên trồng lúa, hoa ở đây là do đội ấy trồng ra. Nhà tôi thuộc đội trồng hoa đấy”. Tôi vội hỏi: “Vậy chắc chắn, bác phải biết cánh đồng hoa ở chỗ nào chứ ạ?” Bác trả lời: “Dĩ nhiên tôi biết, cứ theo khúc đường này đi xuống, theo mấy cái người kia kìa, thì đến thôn Hạnh Phúc, đội trồng lúa ở trong thôn Hạnh Phúc đấy”. Tôi thấy thú vị: gọi đường là khúc, gọi người là cái, thật hay! Nhưng tôi không dám nói ra, chỉ cười nhoẻn với bác: “Cám ơn bác đã chỉ đường ạ!” Bác nông dân thích lắm liền nói: “Bác cho cháu mấy bông hoa này!” Nói rồi bác đặt làn xuống đất, chọn ra bốn bông hoàng lan sực nức hương thơm, đưa cho tôi và nói: “Kiếm một cái lá to mà đặt vào cho nó tươi”. Ba vội vàng chạy xuống ven đường ngắt được một tàu lá vừa to vừa xanh biếc đưa cho mẹ, mẹ cẩn thận gói mấy bông hoa đó lại rồi đưa cho tôi. Mẹ rất cảm động, thấy cái làn trong tay bác nông dân chất đầy cà chua, rất nặng, liền nói: “Bác để tôi xách giúp một tay!” Nói xong, liền đỡ lấy cái làn trong tay bác. Bác nông dân vui mừng nói: “Hai bác khách sáo quá!”

Sau khi chia tay với bác nông dân, mẹ nói với tôi: “Người nhà quê chất phác hơn những người thành phố. Con thấy không, bác nông dân vui vẻ cho chúng ta mấy bông hoa, thế mà chúng ta không nghĩ đến việc chủ động trước xách làn cho bác”. “Phải đấy!”, tôi và ba cùng nói.

Những con người và sự việc sau này chúng tôi đã gặp được cũng đã chứng thực cho điều đó.

 

Ngày 8 tháng 7, tiếp theo

Tặng phẩm bất ngờ

Chúng tôi vội vã trở về nhà, dọc đường gặp mấy thửa ruộng trồng toàn cúc đại đoá, dù đang vội mấy, tôi không thể không đứng lại ngắm nhìn. Hoa cúc đại đoá thật là đẹp! Trên mỗi cánh hoa màu vàng sắc đỏ, cánh hoa mềm mại rực rỡ, lung linh. Quả là một vẻ đẹp mê người. Tôi lắc tay mẹ: “Mẹ ơi! Con xin mẹ, mẹ mua cho con một bông, to nhất, đỏ nhất kia kìa, chỉ một bông thôi”. Mẹ suy nghĩ một lát rồi nói: “Thực ra, mẹ không phải không muốn mua cho con, nhưng thông thường, những người bán hàng khi thấy trẻ con thích thì họ thường hay nâng giá đến mức vô lý, vì cha mẹ nào mà chẳng chiều con, đắt mấy cũng phải mua. Thế nhưng, con thích thì mẹ vẫn cứ mua cho con một bông”.

Tôi hỏi cô chủ đang hí húi vun trồng lên một luống đất mới: “Cô ơi! Cúc đại đoá bao nhiêu một bông ạ?” Cô ngẩng đầu nhìn tôi, rồi ôn tồn nói: “Cháu cứ hái lấy mấy bông đi!” Nói xong cô lại tiếp tục cắm cúi làm việc. Tôi và mẹ cứ ngây ra đứng trên bờ, chẳng hiểu thế nào, kỳ thực còn chưa tin ở tai mình. Cô ngẩng đầu lên, thấy chúng tôi không hề nhúc nhích, cô giục: “Cứ xuống hái đi cháu!” Bây giờ tôi mới chợt hiểu ra, mừng rỡ chạy xuống ruộng hoa, hái liền mấy bông tôi thích nhất.

Cô chủ vẫy tay bảo tôi: “Lại đằng này, cháu!” Nói rồi, cô liền sang luống bên cạnh, tôi tung tăng chạy theo. Cô hái cho tôi ba bông lớn, một bông vàng, hai bông đỏ. Tôi cầm hoa trên tay sung sướng như bắt được vàng. Những bông hoa này, cánh hoa dày xít chồng lên nhau, sắc hoa rực rỡ, mỗi cánh hoa mềm mại đều như cố vươn dài ra khoe sắc, trông thật đẹp. Thấy tôi thích quá, cô chủ lại nói: “Cho cháu tự chọn, hái lấy một bông cháu thích nhất”. Tôi mừng ra mặt, ngắm nghía hồi lâu, tôi chọn hái một bông vàng rực. Bông hoa này còn chưa nở hết, ở giữa bông vẫn còn màu đỏ thẫm, những cánh hoa đã bung ra thì màu vàng rực, sự hoà quyện giữa hai màu vàng, đỏ thật là đẹp mắt. Tôi đã vui vẻ nói rất nhiều lời cảm ơn cô chủ ruộng hoa tốt bụng đó.

Trên đường về, chúng tôi cứ tấm tắc khen hoài: Những con người ở đây tốt thật, đã cho hoa lại còn vui vẻ nhiệt tình. Giá như ở thành phố, những dịp như thế này, chắc họ phải “bóp” mình lè lưỡi. “Người nhà quê quả thực là thật thà chất phác!”

Sau này, những bông cúc đại đoá kia tàn rồi, nhưng mỗi khi nghĩ về người nhà quê, những đoá hoa trong lòng tôi thì cứ mãi mãi nở rực rỡ và toả hương thơm ngát!

 

SAY SƯA HỌC VÀ RÈN, NHƯNG KHÔNG ĐỂ MẤT TUỔI THƠ

 

Tích luỹ và chuẩn bị tri thức và kinh nghiệm cho một tương lai tốt đẹp của Đình Nhi, chúng tôi luôn kiên trì theo hai nguyên tắc: 1. Về thời gian: Thời gian ngắn nhất, hiệu suất cao nhất; 2. Về phương thức: ưu tiên đặc tính tuổi nhi đồng.

Hai nguyên tắc này làm Đình Nhi luôn biết kết hợp hết sức chặt chẽ giữa học và chơi. Ngay từ nhỏ, Đình Nhi đã hiếm khi chơi những trò chơi vô bổ; các trò chơi của cháu không nhằm để rèn luyện sức khoẻ thì cũng nhằm rèn luyện những kỹ năng cần thiết cho học tập. Điều này cũng không hề trở ngại đến việc vui chơi thoả thích của Đình Nhi, trái lại càng làm cho tuổi thơ của Đình Nhi đầy ý nghĩa.

Hãy xem Đình Nhi đã vui chơi như thế nào, ta sẽ thấy, mặc dầu đã có sự tinh khôn già dặn hơn các bạn cùng trang lứa về trí lực, nhưng Đình Nhi vẫn là một đứa trẻ ngây thơ hồn hậu.

Ngày 15 tháng 7 (Khi 10 tuổi)

Vật yêu quý của tôi

Trong cuộc du hành về làng hoa Tam Thánh vừa qua, tôi đã bắt được một chú cánh cam to bằng đầu ngón tay cái người lớn trên cánh đồng trồng hoa. Đây là con cánh cam màu xanh đồng. Đầu xanh biếc và bóng loáng, lưng màu nâu thẫm, lấm tấm điểm những nốt hoa màu nâu nhạt. Cả tấm lưng hình bầu dục ấy óng ánh đồng thau mỗi khi có tia nắng mặt trời chiếu rọi. Tôi tra từ điển “Từ hải” được biết “cánh cam thuộc loài côn trùng cánh cứng, khác với ong mật là loài côn trùng cánh mềm”.

Khi về đến nhà, tôi liền lấy một sợi chỉ màu xanh nhạt buộc chặt ngang lưng cánh cam ở đoạn giữa chân thứ nhất và đôi chân thứ hai, để cho nó khỏi bay đi mất. Mỗi khi cánh cam bay, trước tiên nó mở rộng đôi cánh cứng, đôi cánh mềm bên trong tiếp tục vươn ra, giống như hai lưỡi kiếm được rút ra khỏi vỏ. Tôi nắm chặt đầu dây, cho cánh cam tự do bay lượn. Mẹ nhìn thấy, bật cười: “Cả ngày chỉ chơi với cánh cam, cứ làm như con cánh cam là một thứ “ngựa bay thần thoại” ấy!” Tôi thích chí: “Đúng, đúng, nó là “con ngựa bay”, là “con ngựa bay” mẹ ạ!”

Buổi sớm mỗi ngày, tôi đều “chăm ngựa” ở trên sân thượng. Tôi thả “ngựa” từ trên tầng ba xuống, nếu dây không đủ thì nối thêm cho “ngựa xuống ăn cỏ” ở vườn hoa dưới tầng một. Đến tối, tôi cho cánh cam vào ở trong bồn hoa thập tam thái bảo, đây là cung điện của cánh cam. Nó thích chí lắm, cứ bò đi bò lại, đói thì ăn cánh hoa, khát lại uống nhựa cây ở đó.

Có lần con cánh cam tự nhiên biến mất, tôi sợ quá, nghĩ rằng nó đã bay đi rồi, hoặc đã chết, vội vàng đi tìm khắp nơi. Cuối cùng tôi đã tìm thấy nó trên đệm xa-lông, con cánh cam đang ung dung nhàn hạ dạo chơi ở đó. Tôi thở phào nhẹ nhõm. “Sao nó lại ở đây thế nhỉ?” Tôi nghĩ kỹ cái hốc khe tường, rồi quên không cất đi, khi bật đèn, cánh cam thấy ánh sáng liền bò ra. Đây là “con ngựa quý” của tôi, nó đã đem lại cho tôi nhiều điều thú vị!

 

Ngày 23 tháng 7

Cãi nhau

Trong đợt nghỉ hè này, có một ngày trong lòng tôi bỗng nổ ra một cuộc cãi vã kịch liệt, giữa một bên là “ông dục vọng” và bên kia là “ông lý trí”.

“Ông dục vọng” gây sự trước: “Cháu thật là bất hạnh, nghỉ hè rồi mà vẫn cứ vùi đầu làm bài văn, viết chữ, học bù lại những kiến thức từ lớp chuyên toán Olympic mấy năm về trước. Tội gì mà như thế, đi chơi có hơn không?”

“Ông lý trí” cãi lại: “Nếu cháu cứ đi chơi, vậy thì còn cái mục tiêu vào trường chuyên Olympic thì sao? Lẽ nào cháu lại không muốn trở thành một học sinh xuất sắc hay sao? Lẽ nào cháu không thích thi đạt 100 điểm hay sao? Thôi, ngồi xuống học đi”.

“Ông dục vọng” nói: “Này, đừng có dụ dỗ nó vào con đường thiên thẹo đó. Ngươi thấy không, những học sinh khác chỉ thi được 80 điểm, mà họ đã chơi đùa xả láng, thế mà cô chủ nhỏ của chúng ta, thi toán được những 99 điểm, có lý do gì mà lại không được chơi bời thoải mái. Nghỉ hè có nghĩa là “ngủ cho đã, chơi cho thỏa” kia mà!”

“Chà chà! Thật là… Cô chủ, cô đừng nghe lão ấy nói láo đấy!” “Ông lý trí” khuyên tôi.

“Ai nói láo! Ai nói láo! Ông nói láo thì có. Nghỉ hè, học sinh nào chẳng đi chơi, tại sao cô chủ nhỏ của chúng ta lại không được đi chơi?” – “Ông dục vọng nói”

“Ông lý trí” cũng chẳng chịu thua kém: “Học là chính, chơi là phụ. Cô chủ nhỏ, mấy năm nay cô đã học khá căng thẳng, học đến mức tưởng chừng như không có thời gian để thở, vậy mà cô vẫn chưa bị bài vở dìm cho đến chết. Cô cũng phải cố học nhiều hơn nữa. Sau này mới trở thành con người có ích cho đất nước”.

Đến đây “ông dục vọng” bí quá, không còn biết nói thế nào nữa, ông hét lên: “Không biết, đây không thèm biết, đây chỉ biết rằng phải ăn chơi, ăn chơi mới là sành điệu!”

Họ cứ thế tranh cãi nhau, cuối cùng cũng chẳng đi đến kết quả gì. Còn tôi, quả thực chưa biết nghe ai. Tôi viết cuộc tranh cãi ấy ra đây, mong các bạn xem xét: ai đúng ai sai?

Thực ra Đình Nhi đã có câu trả lời dứt khoát rồi. Có một số bạn bè đã chê cười Đình Nhi là sống mất tự do, không được thích chơi là chơi. Đình Nhi đã trả lời: “Bây giờ các bạn được tự do, suốt ngày lêu lổng chơi bời, tôi e rằng mai kia các bạn có muốn chơi cũng không được, còn tôi tuy bây giờ không được chơi thoải mái, nhưng sau này tôi lại thoải mái mà chơi”.

 

TRƯỚC HÃY LÀM “BẠN” CỦA CON,

SAU ĐÓ MỚI CÓ THỂ LÀM “THẦY” CỦA CON

 Năm 1991, khi Đình Nhi mới có 10 tuổi, kế hoạch bồi dưỡng Đình Nhi của chúng tôi đã gặp phải một sự quậy phá ghê gớm và bất ngờ: những tập truyện tranh Đô-rê-mon của Nhật Bản như một bầy sâu bệnh khổng lồ ào ạt tràn vào thị trường sách Trung Quốc. Hầu như tất cả các học sinh tiểu học Trung Quốc đều mê mẩn đến quên ăn quên ngủ trước những tập truyện tranh hoang đường ấy của Nhật. Những tập sách truyện cho thiếu nhi truyền thống của Trung Quốc bị nó đánh cho tơi tả. Đình Nhi cũng bị cuốn theo trào lưu ấy. Tình cảnh “văn hoá bị chìm đắm” ấy qua nhật ký của ĐÌnh Nhi chúng ta cũng có thể thấy được đôi phần.

Ngày 8 tháng 8

Cả lớp tôi đều say mê võ sỹ tí hon

Ở học kỳ II lớp 4 này, trên sạp hàng các quầy sách lớn nhỏ khắp trong thành phố, đâu đâu cũng nhan nhản bày bán các bộ truyện tranh Đô-rê-mon nhiều tập, một loại truyện khoa học viễn tưởng đầy tính huyền thoại của Nhật Bản. Nhiều nhất là bộ truyện “Những võ sĩ tí hon của nữ thần”. Chuyện kể rằng, bên cạnh nữ thần Atenô luôn có một đoàn thiếu niên dũng cảm bảo vệ bà, họ là những võ sĩ tý hon. Mỗi võ sĩ đều có một vì tinh tú của riêng mình và một bộ áo thần để bảo vệ những vì tinh tú đó. Võ sĩ nào cũng có những sở trường độc đáo về võ nghệ. Trong truyện có năm nhân vật chính, cả năm nhân vật đều có sở trường riêng. Tinh Thỉ có bài quyền “ngựa sao băng”, Nhất Huy có bài quyền “phượng hoàng bay huyền ảo”, Băng Hà có “cú đấm thôi sơn”, Tử Long có bài võ “rồng lên đỉnh núi”, còn Thuấn thì có “sợi dây xích vô địch”.

Xem xong bộ truyện tranh “Những võ sĩ tí hon của nữ thần” ấy, các bạn trai ở lớp tôi ai cũng thấy mê. Đi đâu họ cũng vung chân, múa tay hò hét “Thiên mã sao băng” đây! – “Hãy nếm thử cú đấm thôi sơn này!” – “Đây là phượng hoàng bay”… Họ tháo khăn đỏ trên cổ ra, bảo rằng đây là “sợi dây vô địch” của Thuấn, rồi hai tay quay tít thò lò, rồi lại nhảy băng về phía trước, bảo là “phượng hoàng bay lượn”, nắm chặt lấy tay đấm vòng một quả, thế bảo là “rồng lên đỉnh núi”…

Thật ra, không chỉ có các bạn trai mê Đô-rê-mon, mà ngay cả các bạn gái, vốn xưa nay rất ghét chuyện đấm đá, thế mà cũng bị hàng loạt tập truyện tranh Đô-rê-mon như “Ba chị em mắt mèo” hoặc “Con gái của dòng sông Nêla”… chiếm lĩnh cả tâm hồn. Đình Nhi cũng rất nhiệt tình giới thiệu với tôi mấy bộ truyện tranh Nhật Bản kiểu như vậy, hy vọng tôi cũng sẽ chia vui với cháu trong niềm say mê những cuốn truyện tranh Nhật Bản ấy.

Đây là lần đầu tiên Đình Nhi đã say mê những cuốn sách ngoài phạm vi giới thiệu của tôi, nếu tôi xử lý không tốt, chắc chắn giữa tôi và Đình Nhi sẽ xuất hiện một hố sâu ngăn cách đầu tiên, biết đâu từ đó sẽ làm gián đoạn luôn cả mọi sự giao lưu giữa hai mẹ con sau này. Đã thấy được tính nghiêm trọng của vấn đề, tôi quyết định dùng đối sách “làm bạn” với con trước, sau mới “làm thầy”. Chỉ có giữ được tiếng nói chung với con, thì mới có thể tìm cơ hội dẫn dắt con vào con đường đúng đắn. Thế là, cùng với sự say mê của con, tôi cũng tìm đọc kỹ khá nhiều bộ truyện tranh Nhật Bản.

Có thể nói rằng, những tập truyện tranh Nhật Bản này cả về hình thức lẫn nội dung đều có những cái hay và cái dở rất điển hình. (Hồi ấy còn chưa nhập vào hoặc in ấn trái phép các loại truyện tranh có tính chất khiêu dâm kích dục hoặc cổ vũ bạo lực của Nhật Bản). Điều làm tôi ngại nhất chính là truyện tranh Nhật Bản có một sức phá hoại cực lớn đối với thói quen đọc sách của trẻ con. Vì hình thức biểu hiện của nó là những bức tranh vẽ biến hoá vô cùng, và một thứ ngôn ngữ vừa giản đơn vừa công thức, hoàn toàn vứt bỏ ngôn ngữ kể chuyện mang tính kể chuyện chính xác và sinh động rất có lợi cho việc bồi dưỡng khả năng tư duy và khả năng biểu đạt của trẻ em. Xem các loại truyện này, trẻ em chỉ cần bám sát các từ tượng thanh ngắn như: “Ối!”, “Ái chà!” được thuyết minh ngay tại cửa miệng các nhân vật trong tranh để theo dõi tình tiết câu chuyện. Trong đầu óc các em, ngoài những tiếng kêu sặc mùi đấm đá như “Chém”, “Song phi”, “Tẩu mã”… hầu như chẳng giữ lại được một câu nói nào hoàn chỉnh. Tồi tệ hơn nữa là, những người xuất bản ra loại truyện tranh này lại chính là những “đại cao thủ” trong nghề buôn bán kinh doanh, họ chỉ bán với giá hai đồng một quyển, năm quyển một bộ, nội dung bộ trước có liên quan chặt chẽ với bộ sau, cứ như vậy họ đã vét sạch những đồng tiền lẻ trong túi trẻ con và cướp đi khoảng thời gian rất ít ỏi dành cho đọc truyện của lứa tuổi học trò. Nếu cứ kéo dài tình trạng như vậy, trình độ ngôn ngữ của dân tộc Trung Hoa sau này không nghèo nàn cằn cỗi đi mới là chuyện lạ.

Tôi tuy trong lòng rất lo, nhưng không ngăn cấm một cách thô bạo việc cháu thích xem truyện tranh Nhật Bản. Trái lại, còn tỏ ra rất thích thú, không hề có thành kiến cùng cháu bàn bạc về những nhân vật và tình tiết của những câu chuyện đó. Hơn nữa, tôi còn bảo cháu hãy lấy những câu chuyện đó làm đề tài cho nhật ký, nhân đó luyện tập cách miêu tả nhân vật và miêu tả cảnh tượng. Tôi coi việc này là một cách “tận dụng đồ bỏ đi” trước khi hoàn toàn vứt bỏ chúng.

Trong quá trình “phòng ngự tích cực” đó, tôi luôn tìm cơ hội để phản công. Sau mấy tháng, những món lợi nhuận kếch xù đã kích thích truyện tranh Nhật Bản ngày càng xuất hiện nhiều hơn, xuất bản bừa bãi hơn. Tôi chọn ra mấy cuốn có nhiều câu sai, chữ sai nhất chỉ ra cho Đình Nhi biết, đồng thời cũng liên hệ đến tình hình thực tế của Đình Nhi là gần đây viết nhật ký, những lỗi sai về câu chữ ngày càng nhiều. Đình Nhi thừa nhận và thán phục nói: “Mê đọc truyện tranh Nhật Bản, rõ ràng là làm cho trình độ ngữ văn ngày một sa sút, từ nay con không bao giờ đọc loại đó nữa”. Ngay hôm sau, mẹ con tôi nhặt nhạnh cả mấy chục quyển truyện tranh Nhật Bản đem bán cho bà hàng đồng nát. Sau này, cũng có đôi lần Đình Nhi mượn của bạn về xem, nhưng chỉ cần nhắc qua, là cháu không xem nữa, vì cháu thừa biết loại sách đó chẳng có tác dụng gì.

Ngay cả việc xem truyền hình và hát những bài hát đang được lưu hành cũng vậy, trước tiên tôi luôn phải là một “người bạn” rất biết đồng cảm với Đình Nhi, sau đó mới làm “quân sư” cho cháu được. Tôi luôn cố gắng để có một tiếng nói chung về sở thích và thị hiếu của cháu. Đối với trẻ con, quan tâm đến sở thích của chúng để nhận được sự đồng cảm hơn so với việc quan tâm đến lợi ích của chúng. Tôi và Đình Nhi cùng xem một bộ phim hoạt hình “Jeane Jackter”, vừa xem hai mẹ còn vừa bình luận với nhau, và rất tự nhiên cháu đã có một bài cảm nghĩ để viết vào nhật ký.

Cảm nghĩ sau khi xem phim “Jeane Jackter”… Sở dĩ Jeane Jackter như vậy là do Jeane đã xem quá nhiều các loại tiểu thuyết kiếm hiệp, xem lúc nào cũng đến mê mẩn cả người, rồi dẫn đến thần kinh thác loạn. Trước mắt Jeane lúc nào cũng là cả một thế giới huyền ảo, rồi theo sự tưởng tượng chủ quan của mình, Jeane đã chém giết lung tung bất kể là ai. Điều này dạy cho chúng ta biết rằng đối với mọi vấn đề đều phải thật khách quan, không bao giờ được làm việc theo sự tưởng tượng chủ quan của mình.

Ngày 13 tháng 8

Mimô đáng yêu

Mấy ngày nay trên ti-vi có chiếu bộ phim hoạt hình nhiều tập của Nhật Bản “Mimô”. Trong phim có một nhân vật là một cô bé Mimô, ở trong chiếc máy tính. Mimô ở trong nhà của hai anh em người Nhật tên là Đại Giới và Thanh Tử. Mẹ nói: “Bé Mimô thật là xấu xí!” Nhưng tôi lại không cho rằng như vậy. Tôi thấy Mimô rất đẹp, hơn thế nữa lại rất thông minh, cái gì cũng biết. Mimô đã giới thiệu cho hai anh em Đại Giới và Thanh Tử biết nguồn gốc và quá trình phát triển của máy bay, máy ảnh, xe lửa và cả nấm mốc nữa… Mimô còn dặn Đại Giới, Thanh Tử và cả tôi đang ngồi trước màn ảnh nhỏ nữa đi thám hiểm ở Nam cực và Bắc cực, đi du chơi trong thế giới của ánh sáng… Mimô chính là sự kết tinh của tri thức, là hiện thân của trí tuệ, hơn nữa Mimô tính tình thẳng thắn cương trực, có đủ những phẩm chất tốt đẹp của loài người.

Tôi rất muốn có một Mimô. Nếu có Mimô tôi sẽ có được rất nhiều tri thức, tôi sẽ hiểu biết nhiều hơn, rộng hơn đối với thế giới khoa học, tri thức muôn màu muôn vẻ. Nhưng Mimô đang ở Nhật Bản, vậy là ước muốn của tôi chỉ là ảo tưởng. Một hôm tôi nghe thấy trong phim nói: trong trái tim mỗi người đều có Mimô, vậy ước muốn của tôi vẫn còn hy vọng, nhưng tôi lại nghĩ: Mimô ở trong trái tim người, lẽ nào trong trái tim mỗi con người lại không có bé tí hon sống hay sao? Không thể như vậy được. Thế thì nó là cái gì? Tôi vắt óc suy nghĩ, đúng rồi! Mimô chính là sự khao khát hiểu biết ở mỗi con người. Đại Giới và Thanh Tử hễ có điều gì không hiểu lại đi hỏi Mimô. Điều đó chẳng giống như việc đi tìm tư liệu hay sao?

Và nó mách bảo tôi rằng, một con người nếu có sự khao khát hiểu biết, thì từng ngày từng giờ họ luôn được trang bị những tri thức mới, sẽ trở thành con người uyên bác.

 

NẮM CHẶT NƯỚC ĐÁ MƯỜI LĂM PHÚT,

RÈN LUYỆN SỨC CHỊU ĐỰNG

 

Ngay từ đầu, Trương Hân Vũ đã có dự định: muốn sau này Đình Nhi lớn lên sẽ có triển vọng tốt đẹp, thì bắt buộc phải có sức chịu đựng hơn người, như vậy mới có thể vượt qua được mọi thử thách, cả về áp lực tâm lý lẫn độ dẻo dai của cơ thể. Sự chịu đựng đó tuy rằng cần cho mai sau, nhưng phải được rèn luyện ngay từ bây giờ.

Khi Đình Nhi 10 tuổi, Trương Hân Vũ bắt đầu thực hiện kế hoạch này. Nhằm nâng cao khả năng chịu đựng của Đình Nhi, mùa hè năm lớp 4 anh đã cho Đình Nhi thực hiện bài “luyện sức chịu đựng” độc đáo: tay nắm chặt cục nước đá trong 1 phút. Dụng cụ luyện tập ấy của Đình Nhi là một cục nước đá được lấy từ trong tủ lạnh ra.

Có một sinh viên nói với tôi, cái tin Đình Nhi được vào trường Đại học Harvard và bài viết nói về cách luyện tập này được đăng trên báo, có nhiều sinh viên hiếu kỳ muốn thử sức theo cách tập của Đình Nhi. Nhưng không ai nắm được trọn 15 phút. Vậy tại sao một con người mẫn cảm như Đình Nhi lại có thể vượt qua được những thử thách mà người thường khó vượt qua được? Hãy nghe Đình Nhi kể lại.

Ngày 19 tháng 8 năm 1991 (Khi 10 tuổi)

Đánh cược với ba

Này! Tôi kể cho bạn nghe nhé, tối hôm qua tôi và ba tôi chơi trò đánh cược đấy, kết quả là, tôi thắng ba một quyển sách.

Đầu đuôi câu chuyện là thế này: Buổi tối, ba lấy từ trong tủ lạnh ra một cục nước đá. Cục nước đá này to hơn một viên pin đại đấy. Ba bảo tôi: “Đình Nhi! Con có thể cầm cục nước đá này trong vòng 15 phút được không? Nếu cầm được, ba sẽ mua cho con một quyển sách”. Tôi nói: “Sao lại không, con với ba đánh cược nhé! Nếu con cầm đủ mười lăm phút, ba phải mua sách cho con đấy”. Tất nhiên là ba đồng ý.

Ba cầm đồng hồ, rồi hô: “Chuẩn bị! Bắt đầu!” Tôi cầm cục nước đá lên nắm chặt. Phút đầy tiên, cảm thấy tạm được, đến phút thứ hai, tôi thấy đau buốt thấu xương, vội vàng cầm ngay lấy lọ thuốc, tập trung đọc những dòng chỉ dẫn ở trên lọ, cốt để chuyển sự chú ý của mình. Phút thứ ba, tôi thấy đau đớn như ngàn vạn mũi kim đâm nhói vào tim, tôi đọc to lời chỉ dẫn trên lọ thuốc để át nỗi đau. Phút thứ tư, tôi có cảm giác như người tôi đóng băng, tê dại, lúc bấy giờ tôi cắn chặt hai hàm răng, để cho nỗi đau chuyển lên khoang miệng và luôn thầm tự động viên: Cố gắng, cố gắng! Phút thứ năm, cả bàn tay tái xám nhợt nhạt, không còn cảm giác đau đớn nữa. Phút thứ sáu, chỉ thấy tê tê. Phút thứ bảy, bàn tay dường như tê dại hẳn. Phút thứ tám, không còn cảm giác gì nữa… Cho đến khi ba tôi nói: “Mười lăm phút rồi đấy!” Tôi buông nước đá, lúc này đã tan gần hết chỉ còn bằng một ngón chân cái. Tôi nhảy cẫng lên vui sướng: “Hoan hô! Hoan hô! Con thắng rồi!” Thế nhưng nhìn xuống bàn tay, tôi thấy một màu tím ngắt, sờ vào cái gì cũng cảm thấy bỏng rát. Ba vội mở vòi nước lạnh cho tôi rửa tay. Vừa ngâm tay trong nước tôi vừa nói với ba: “Ba ơi! Ba hôm nay không gặp may rồi!” Ba nói: “Ba chẳng có gì là không gặp may, trái lại, con có một nghị lực như vậy, chính là ba đang gặp may đấy”.

Đấy tôi đã thắng một quyển sách như vậy đó. Thật chẳng dễ dàng chút nào, phải không bạn?

Ngày 4-6 tháng 3 năm 1992 (Lúc 11 tuổi)

Đánh cược với mẹ

Trưa nay, tôi và mẹ cùng chơi trò thi đứng kiễng chân. Tôi nhớ lại hồi mới lên 3, mẹ dẫn tôi đi xem một bộ phim múa ba-lê Mỹ, phim “Bước ngoặt”. Từ đó, tôi rất mê múa ba-lê, nếu mẹ không cho, tôi không chịu đi ngủ. Mẹ nói: “Học múa ba-lê khổ lắm con ạ, con không học được đâu”. Nhưng tôi vẫn cứ đòi đi học bằng được. Mẹ bật cười bảo: “Nếu con vịn lan can, đứng kiễng chân theo tư thế “kim kê độc lập” đủ 15 phút, mẹ sẽ đồng ý cho con đi học múa ba-lê”. Tôi hăng hái làm đúng tư thế và bắt đầu đứng, ai ngờ mới đứng được năm phút, liền ngã khụyu. Hôm nay, đã bảy năm, nhớ lại chuyện cũ, cảm thấy thật là thú vị. Tôi nhắc lại chuyện ấy cho mẹ nghe, hai mẹ con cùng cười.

Cho đến hôm nay, tuy tôi không còn nghĩ đến chuyện múa ba-lê, nhưng vẫn chưa chịu thua. Thế là tôi nói với mẹ: “Con đánh cược lại với mẹ, lần này con xin đứng hẳn 30 phút!” – “Hay quá!” mẹ hào hứng nói: “Nếu con làm được, mẹ sẽ mua tặng con một món quà hợp với túi tiền của mẹ”. Nghe mẹ nói vậy, tôi mừng quá, liền vịn vào tủ sách, co chân đứng theo tư thế “kim kê độc lập” (gà đứng một chân). Mẹ vội nói: “Thôi thôi! Con không làm được đâu, trừ phi con là nghệ sĩ múa Lương Lệ Bình. Con cứ đứng kiễng cả hai chân lấy nửa tiếng đồng hồ là tốt lắm rồi!” Tôi liền bỏ nốt chân kia xuống, đứng kiễng: “Thế càng dễ!” Tuy nói vậy, nhưng trong lòng vẫn lo, vì trước nay chưa đứng thế này bao giờ. Thế là tôi đành phải nói nước đôi: “Mẹ, nhất định con sẽ thắng”. Mẹ trả lời: “Có được nghị lực cao, mới có sức chịu đựng dẻo dai của cơ thể”. Câu nói của mẹ không những không làm cho tôi dao động, mà trái lại càng củng cố lòng quyết tâm của tôi.

Mẹ vẫn cho rằng tôi không làm được, liền gọi cả ba đến chứng kiến, còn tôi hỏi ba: ai sẽ thắng. Ba cười: “Theo ba, lần này mẹ sẽ thắng”. Tôi cười thầm trong bụng: “Ba mẹ đừng quên, ba mẹ đã hai lần thua con về những việc như thế này rồi đấy. Lần thứ nhất, ba mẹ đã đánh cược với con, đứng một tư thế khó, trong vòng 30 phút, con đã thắng. Lần thứ hai, con với ba đánh cược nắm nước đá, kết quả, con cũng thắng. Lần nào mà con chẳng đoạt được giải thưởng của ba mẹ”. Nghe tôi nói vậy, mẹ bật cười: “Mẹ cảm thấy, túi tiền của mẹ đang bị uy hiếp đây”.

Mạnh mồm nói vậy, kỳ thực tôi cảm thấy hai bắp đùi tôi bắt đầu tê tê, liếc nhìn đồng hồ: “Ái chà! Mới được có 3 phút. Không sao, không sao!” Tôi thầm động viên. Tích tắc, tích tắc, ông già thời gian hình như cố ý trêu tức tôi, chậm chạp, lê từng bước. Năm phút trôi qua, bắp đùi tôi đã bắt đầu đau nhức. Tôi vội giở mánh khoé, lấy ở trong túi áo ra một quả bóng bay, phồng mồm thổi, thổi căng rồi lại xả hơi ra, cứ vậy, tôi cố tình chuyển trọng tâm chú ý của mình. Nhưng thật không may, trong khi thổi tôi vô ý để quả bóng bay xuống đất. Làm thế nào bây giờ! Tôi nhìn đồng hồ, hay lắm, đã được 15 phút rồi. Tôi thở phào nhẹ nhõm. Thế nhưng, chân trái đã bắt đầu bị chuột rút, và cũng chỉ lát sau chân phải cũng vậy, chuột rút tê cứng cả người, tôi không còn bóng bay để chuyển trọng tâm chú ý nữa, liền nghĩ ra một cách: nhẩm đọc kết quả bình phương của những con số thường dùng. Cách làm này thật hiệu nghiệm, tôi dường như đã quên được mọi sự đau đớn của cơ thể…

Kiên trì đến cùng tất thắng lợi, lần thứ ba tôi đã thắng!

Những câu chuyện trên đã chứng minh, ngày từ thời thơ ấu, Đình Nhi đã được bồi dưỡng kỹ năng về ý chí, và trong quá trình trưởng thành đã không ngừng củng cố. Nhờ có ý chí kiên cường ấy mà trong khi Đình Nhi vừa tích cực chuẩn bị thi vào đại học, đồng thời vừa học thi TOEFL và hoàn thành 12 lá đơn xin vào học tại 12 trường đại học của Mỹ. Một gánh nặng quá sức liên tục kéo dài trong mấy tháng trời như vậy, nếu không có ý chí kiên cường, nghị lực dẻo dai thì làm sao có thể chịu đựng nổi!

 

BẠN TỐT CÀNG NHIỀU,

KHẢ NĂNG GIAO TIẾP CÀNG THÀNH THẠO

Các nhà tâm lý học cho rằng, quan hệ của bạn bè vô cùng quan trọng đối với sự phát triển tính cách của trẻ em, tình bạn tuổi ấu thơ có một tầm quan trọng tương đương với sự dạy dỗ và tình thương của cha mẹ.

Những ngôi nhà cao tầng theo kiểu căn hộ khép kín ở thành thị ngày nay, tuy có nhiều trở ngại trong việc giao lưu kết bạn của trẻ em, nhưng có cũng tạo điều kiện thuận lợi để cha mẹ dễ dàng chọn bạn cho con. Chúng tôi biết triệt để lợi dụng điều kiện thuận lợi đó, để cho Đình Nhi được tiếp xúc với khá nhiều bạn tốt đủ loại, ngay trong thời kỳ mẫn cảm nhất, khi khả năng giao tiếp của trẻ thơ bắt đầu phát triển. Qua đó, cháu có thể tích luỹ được những kinh nghiệmquý báu trong việc kết thân với các bạn cùng trang lứa, nhưng có những sở trường và sở thích khác nhau. Điều này rất quan trọng đối với việc tăng cường khả năng hoà hợp trong tính cách của ĐÌnh Nhi.

Các nhà tâm lý học đã chỉ rằng, thời kỳ từ 9 đến 12 tuổi là thời kỳ xây dựng tình bạn của trẻ con. Các cháu không chỉ còn chú ý đến những hành vi bên ngoài của bạn, mà đã chuyển sang quan tâm đến những tố chất nội tại, và đặc trưng tính cách của bạn. Nhiều nhà tâm lý học coi giai đoạn này là cơ sở cho tình bạn, tình yêu sau này. Họ cho rằng, trẻ em trong giai đoạn này nếu không tìm được bạn thân, thì đến tuổi thiếu niên hoặc khi đã trưởng thành, các cháu cũng rất khó tìm được cho mình một người bạn thân chân chính. Trong giai đoạn này, sự thân thiết trong tình cảm giữa chúng được hình thành và củng cố bởi những hành vi cụ thể như: cùng chia ngọt sẻ bùi, cùng khắc phục khó khăn và giải quyết những mắc mớ thường ngày… Tình bạn thân thiết đó suốt đời chúng sẽ không quên, và có nhiều trường hợp những đôi bạn đó còn thân thiết suốt cả cuộc đời.

Trong cả thời kỳ tiểu học, Đình Nhi chủ yếu chỉ có ba người bạn thân, một bạn thuộc loại thích vận động – đó là Ương Ương, bạn này thường hay rủ Đình Nhi đạp xe đi chơi phố, hoặc trượt băng, hoặc ra bãi biển xây những ngôi nhà lầu trên bãi cát. Một bạn thuộc loại yêu thích nghệ thuật – Vương Ngọc, bạn này thích cùng Đình Nhi vẽ tranh hoặc làm những đồ thủ công bé tí. Và một bạn nữa chỉ say mê học tập, sáng tạo – đó là Tề Tịnh. Bạn này thích bàn bạc với Đình Nhi đủ mọi chuyện về học hành và cách làm báo tường… Cứ gặp nhau là hai cháu lại say sưa với những hoạt động mang tính sáng tạo. Trong những trang nhật ký viết khi Đình Nhi 10 tuổi, cháu đã ghi lại được những phút giây sung sướng được cùng vui chơi với những người bạn thân ấy.

CHĂM LÀM THÀNH THÓI QUEN,

TÂM CÀNG SÁNG, CHÍ CÀNG BỀN

Ngay từ lúc mới ba tuổi, Đình Nhi tuỳ theo sức lực của mình đã làm những việc vặt trong nhà, nền nếp đó còn giữ mãi cho đến khi cháu học xong lớp 5. Đình Nhi rất quen thuộc với công việc làm một người giúp việc tí hon cho ba mẹ. Hằng ngày, cháu đều tự giác lau nhà, tưới hoa và đổ rác, tuyệt nhiên không nhiễm tính chây lười của những “cậu ấm” trong các gia đình chỉ có một con. Nếu khi cháu đi học về mà ba mẹ không có nhà, vừa đặt cặp sách xuống là cháu đã tự giác đi làm bài tập, làm xong bài tập lại chủ động xuống bếp giúp mẹ làm cơm.

Đình Nhi rất hiểu làm các công việc vặt trong nhà chính là một cách để cha mẹ bồi dưỡng cháu có được một thói quen tốt, mục đích chủ yếu là rèn luyện cháu có được đức tính cẩn thận, lòng kiên nhẫn và tinh thần trách nhiệm cao. Mỗi lần giúp mẹ làm một công việc gì đặc biệt, là cháu lại có thêm một đề tài để viết nhật ký. Đối với lao động chân tay, cháu luôn chủ động tự giác, hơn nữa còn coi lao động là một niềm vui.

Ngày 1 tháng 10 năm 1991 (Lúc 10 tuổi)

Vớt váng dưa

Nhà ông Đàm ở tầng trên nhà chúng tôi, cả nhà sắp đi Mỹ. Trước khi đi, ông lễ mễ bê hai vại dưa muối sang cho nhà tôi. Cả nhà chúng tôi đều thích ăn dưa muối, nhưng không có thời gian làm. Vì trước khi đi ra nước ngoài, cả nhà đều vô cùng bận rộn nên ông Đàm không có thời gian thay nước muối cho dưa, nên trên mỗi vại dưa đều nổi lên một lớp váng mỏng màu trắng. Lớp váng này là do những vi khuẩn trong không khí rơi vào vại dưa tạo nên. Người Tứ Xuyên gọi là “sinh hoa”.

Tối hôm qua, mẹ đọc sách, tìm được một cách trị loại váng này, theo sách thì phải lấy một sợi dây thép và một mảnh vải để làm thành cái vợt. Mẹ bảo tôi: “Đình Nhi, mẹ cho con một tư liệu để viết văn, con có đồng ý không? Con hãy lấy cái vợt này vớt hết váng mỏng trong vại dưa ra”. Tôi nhận lời, tung tăng chạy trước vào nhà bếp, giục mẹ: “Mẹ! Mẹ bê hộ con vại dưa này đặt trên mặt bàn kia”. Mẹ bê giúp tôi vại dưa đặt lên trên bàn, rồi mở nắp vại, mùi chua hấp dẫn làm tôi thấy chảy cả nước dãi.

Mẹ dạy tôi cách vớt váng dưa, rồi đứng cạnh nhìn tôi làm. Tôi cầm cái vợt, thò vào miệng vại rồi nhè nhẹ hớt những lớp váng mỏng màu trắng nổi lên trên mặt nước. Lớp váng mỏng vỡ tan, cả cái vợt bám đầy váng trắng. Tôi đem vợt ra vòi nước rửa sạch, rồi nhúng vào nồi nước sôi đang đặt trên bếp lò. Một lát sau, tôi quay lại hỏi mẹ: “Mẹ oi! Như thế đã được chưa?” Mẹ rất hài lòng: “Được rồi, làm như vậy là rất tốt!” Nói xong mẹ yên tâm đi ra ngoài.

Tôi quay lại tiếp tục vớt váng dưa. Thấy lớp váng bám cả trên thành vại, tôi lấy đèn pin ra soi, rồi cẩn thận lấy vợt quay mấy vòng quanh thành vại, cho đến khi thật sạch mới thôi. Gần thành vại vẫn đang còn một ít váng cố tình chạy trốn, tôi đưa vợt đến đâu là nó đã nhanh chân chạy trước, tôi quay vợt đón đầu, cuối cùng tôi cũng bắt được hết.

Tôi mời mẹ nghiệm thu, mẹ nói: “Sạch rồi! Như vậy, con lại học được một cách làm nữa nhé”.

Đình Nhi không chọn việc, bảo làm việc gì cũng vui vẻ làm ngay, dù việc đó cần sự khéo léo hay cần sức lực. Chỉ cần mẹ sắp xếp thời gian và hướng dẫn cách làm. Có những việc các bạn khác không khi nào chịu làm, như lau rửa từng viên gạch men lát trên thành tường nhà vệ sinh, nhưng giao cho Đình Nhi cháu vẫn vui vẻ làm ngay.

Ngày 26 tháng 8 năm 1992 (Lúc 11 tuổi)

Tôi yêu hoa lan

“Làm hoa, xin làm một nhành lan. Hương thơm man mác, dáng thanh nhàn…” Đây là câu thơ của Lý Bạch, nhà thơ lớn đời Đường. Câu thơ đã thể hiện lòng yêu quý hoa lan của nhà thơ. Trước lan can nhà tôi cũng có một chậu lan, tôi thích lắm.

Hoa lan cuả nhà tôi thuộc giống huệ lan, nở vào mùa hè. Có một hôm, tôi tưới hoa, bỗng thấy chậu lan nhú lên một chiếc nụ nhỏ, tôi mừng quá, hét toáng lên: “Mẹ ơi! Ba ơi!Hoa lan nhà ta có nụ rồi…” Từ đó, ngày nào tôi cũng phải đến thăm hoa đến mấy lần, xem nó lên cao hay chưa, đã nở thành hoa chưa. Ngày qua ngày, cái nụ lan nho nhỏ đó, nay đã vươn cao chừng hai gang tay, rồi mấy ngày sau đó, bỗng có mùi thơm thoang thoang trong nhà, tôi nghĩ bụng: “Lẽ nào…” Tôi vội chạy lại phía chậu lan. Ôi! “Hoa lan nở rồi, hoa lan nở rồi! Hay quá! Hoan hô!” – Tôi mừng quá cứ nhảy tưng tưng. Hoa lan phô những cánh mềm màu vàng nhạt ở chính giữa, trên mỗi cánh hoa có điểm những chấm hồng, trông chẳng khác gì một chiếc ngai vàng bằng hoa vậy. Chiếc chậu hoa có điểm chấm hồng ấy, thật giống như một tấm thảm màu bước tới ngai vàng. Mùi hoa lan nhè nhẹ mà ngây ngất, dễ làm say đắm lòng người.

Từ đó, tôi càng thấy yêu chậu lan, ngày nào cũng “tắm” cho hoa, mỗi lần “tắm” xong tôi đều đứng lại ngắm nghía hồi lâu. Những chiếc lá mềm mại hình thoi còn đọng lại những giọt nước long lanh như hạt ngọc, càng tôn thêm vẻ đẹp u uẩn mà thanh cao.  Có lần, tôi nhìn thấy trên một chiếc lá xanh non có mấy con sâu nhỏ, mẹ vội đi mua thuốc về “chữa bệnh” cho lan.

Hoa lan đem lại niềm vui cho cả nhà. Có lần mẹ giận tôi, hai mẹ con đều rất buồn, thế mà mùi hoa lan thoang thoảng trong nhà đã làm cho mẹ nguôi giận. Và tôi cũng nhận ra lỗi của mình, chạy đến xin lỗi mẹ.

Hoa lan làm cho gia đình tôi tràn đầy sinh khí. Tôi yêu quý hoa lan, mong hoa lan sẽ đem lại nhiều niềm vui cho gia đình khác.

 THỂ HIỆN SỰ XẤU HỔ VÀ ÁY NÁY: THƯƠNG YÊU BA MẸ

Làm trẻ con biết tự xấu hổ và băn khoăn áy náy về những sai lầm của mình là một biện pháp giáo dục vô cùng hữu hiệu. Nó có thể làm cho trẻ có khả năng tự sản sinh ra một loại “chất đề kháng” ngay từ lòng mình, để sau này có thể chống lại mọi hành vi sai lầm làm cho mình thấy xấu hổ.

Năm Đình Nhi lên 10  tuổi, cháu đã trưởng thành nhanh chóng về nhiều mặt. Nhưng dẫu sao vẫn chỉ là một đứa trẻ có nhiều lúc nghịch ngợm rất dại dột. Mỗi lần như vậy, chúng tôi đều rất chú ý đến cách thức và mức độ phê bình, mong sao sau này cháu có thể biến những áp lực từ bên ngoài ấy thành quy chuẩn hành vi ngay tại lòng mình. Chúng tôi cho rằng, khi nào Đình Nhi biết tự xấu hổ, tự băn khoăn áy náy trước những việc làm không đúng của mình, thì tâm lý của cháu mới chính thức bắt đầu chín chắn. Tôi còn nhớ rất rõ, năm tôi khoảng 17 tuổi, mỗi lần nghĩ đến thầy giáo họ Tạ, tôi đều cảm thấy mình còn phải cố gắng rất nhiều, phải làm tốt hơn nữa. Tôi luôn mong muốn Đình Nhi cũng có được những sự thể nghiệm về tâm lý như vậy. Sự mong muốn ấy của chúng tôi đã thành hiện thực vào một ngày hè năm Đình Nhi học lớp 4.

Ngày 20 tháng 8 năm 1991 (Lúc 10 tuổi)

Xấu hổ

Ăn cơm sáng xong, mẹ tôi ra chợ mua rau, trong nhà chỉ còn có một mình tôi. Thu dọn bát đũa xong, tôi vào phòng riêng chuẩn bị làm bài tập làm văn. Nhìn trước nhìn sau, đôi mẳt tôi bắt gặp một ngăn tủ luôn đóng kín bên dưới tủ sách. Tôi nghĩ: không biết trong chiếc ngăn tủ kia để những gì, hôm nay nhân lúc ba đi làm, mẹ đi chợ, mình thử mở ra xem, biết đâu chẳng kiếm được mấy quyển sách hay để đọc.

Càng nghĩ tôi càng tò mò và thích thú, thế là việc làm bài tập làm văn tôi đã quên bẵng đi từ lúc nào!

Tôi hì hục bê chiếc hộp các tông bên cạnh tủ sách ra xa, rồi lại đẩy chiếc hòm con đặt trước tủ sách sang bên cạnh. Sau đó, với sự tò mò đầy thích thú, tôi mở ngăn tủ đó, trong tủ tối om chẳng nhìn thấy cái gì. Thế là tôi thận trọng bê chiếc đèn bàn trên nóc tủ đặt xuống đất, cắm điện, đèn bật sáng. Tôi ngồi bệt xuống đất, cúi đầu nhìn vào bên trong. Ôi những chồng sách cao ngất, xếp chặt bên trong, tôi mừng quá! Bỗng nhiên tôi nghe thấy tiếng khoá lạch cạch kêu, tôi giật bắn cả mình, nghĩ bụng: “Thôi chết rồi! Mẹ về. Ôi thật là đen đủi!” Tôi còn đang lúng túng, thì mẹ đã đứng sững ngay trước mặt. Thấy ngăn tủ dưới bị mở toang, còn tôi đang ngồi trước cửa tủ, mẹ tôi liền hiểu ra mọi việc. Mẹ nghiêm nét mặt nói với tôi: “Thì ra, người lớn không ở nhà, con học hành như thế phải không?” Nói rồi mẹ giận dữ đá mạnh mấy cú vào chiếc hộp giấy. Tôi biết, mẹ định đánh tôi, nhưng không nỡ, nên trút giận vào chiếc thùng vô tội kia. Mẹ lườm một cái, thở dài rồi quay đi.

Tôi cứ ngồi ngây trước tủ sách, xấu hổ và hối hận vô cùng: mình không nên lãng phí thời gian như vậy, ba mẹ đã tìm đủ mọi cách, dành cho mình từng phút từng giờ, thế mà mình lại lãng phí thời gian nhiều như vậy. Thật có lỗi với ba mẹ vô cùng. Càng nghĩ, tôi lại càng thấy xấu hổ và ân hận vô cùng. Thế là tôi đứng dậy cất đèn bàn, bê hộp giấy để lại chỗ cũ, rồi quay lại bàn học, bắt đầu bài tập làm văn.

Đình Nhi bắt đầu có hiểu biết, càng có hiểu biết, Đình Nhi càng yêu thương cha mẹ. Mùa hè năm sau, để chữa khỏi bệnh cho ba, Đình Nhi đã lặn lội đi khắp nơi để tìm thầy bốc thuốc bắc cho ba. Hình ảnh một cháu bé mới 11 tuổi, một mình đạp xe giữa trời nắng chang chang đi tìm thuốc chữa bệnh cho ba. Đó là một trong những kỷ niệm ấm áp nhất trong lòng ba mẹ.

Ngày 24 tháng 7 năm 1991 (lúc 11 tuổi)

Mua thuốc cho ba

Giữa kỳ nghỉ hè, trên mặt ba bỗng mọc lên hai cái nhọt thật to, đau nhức. Thấy vậy, tôi rất muốn có cách nào giúp ba giảm bớt sự đau đớn.

Một hôm, ba bảo tôi đến hiệu thuốc bắc bốc cho ba mấy thang thuốc chữa nhọt. Tôi vâng lời. Ba lấy bút kê đơn: “Địa hình hoa tía – 3 khắc; hoa cúc dại – 3 khắc… cắt 3 thang”. Tôi hỏi ba: “Ba khắc là thế nào hả ba?” Ba nói: “là 3 gam” – “Con hiểu rồi ba ạ”.

Tôi cầm đơn thuốc và địa chỉ mấy hiệu thuốc bắc ba viết cho tôi, nhảy lên xe đạp phóng đi.

Đầu tiên, đến hiệu thuốc Đồng Nhân Đường, tôi hỏi người bán hàng, có những loại thuốc như trong đơn không, được trả lời là không có. Tôi lại đạp xe đến hiệu thuốc khác gần bưu điện, họ cũng trả lời là không có.

Tôi hơi nản chí, song nghĩ đến sự đau đớn của ba, thấy hăng hái lên, lại đạp xe đến một hiệu thuốc ở gần ngã tư phố Đông Đại.

Tôi đưa đơn thuốc cho cô bán hàng hỏi: “Cô ơi! Ở đây có những loại thuốc như trong đơn này không ạ?” Cô bán hàng đọc đơn thuốc rồi trả lời ngay: “Có đấy” – “Cám ơn cô! Cô làm ơn cắt cho cháu ba thang ạ!”, tôi đang định lấy tiền trả cô, cô liền đẩy trả đơn thuốc, rồi nói: “Không phải trả tiền ở đây, sang quầy bên kia”. Tôi ấm ức trong bụng nghĩ: “Thái độ phục vụ ở đây sao kém thế”.

Trả tiền xong, tôi hỏi cô bán hàng, lấy thuốc ở đâu ạ, cô ta sẵng giọng: “Đợi đấy!” Tôi đề nghị: “Nhờ các cô chia làm 3 thang cho cháu được không ạ?” – “Cái gì? Không được”. Tôi định nói tiếp, nhưng nhìn thấy bộ mặt sẵng sàng cãi nhau của cô ta, tôi đành nén nhịn, đứng sang một bên. “Lấy thuốc, lấy thuốc này…” Chỉ lát sau có tiếng quát lên như vậy. Tôi vội chạy lại lấy thuốc. Khi quay ra tôi còn nghe thấy cô ấy chửi tục một câu. Tôi chẳng thèm chấp, chỉ nghĩ bụng: “Con người này thật là… đã không gói hàng theo yêu cầu của khách, lại còn chửi bậy, hừ!”

Nhưng thôi, cuối cùng tôi đã mua được thuốc cho ba. Đó là điều tôi sung sướng nhất.

Càng khôn lớn hiểu biết, Đình Nhi càng chú ý học hỏi ở ba mẹ từng lời ăn tiếng nói. Cháu đã biết chủ động tiếp thu những cái hay cái đẹp từ trong cách cư xử của ba mẹ để tự hoàn thiện mình.

 

VƯỢT QUA NHỮNG THỬ THÁCH LỚN LAO,

ĐÌNH NHI ĐƯỢC VÀO HỌC TRƯỜNG NGOẠI NGỮ

Theo thông lệ từ nhiều năm nay, trường tiểu học mà Đình Nhi đang theo học, mỗi năm đều có 10 chỉ tiêu được giới thiệu vào học trong các trường trung học trọng điểm, tiêu chuẩn xét duyệt là tổng số điểm thi tốt nghiệp cuối cấp. Năm nay 1993, năm Đình Nhi tốt nghiệp tiểu học, theo sự lần lượt phân công, trường tiểu hoch của Đình Nhi sẽ được giới thiệu học sinh vào học Trường trung học số 7 ở Thành Đô, một trường trọng điểm mà Đình Nhi vẫn hằng khao khát. Để có đủ tư cách được giới thiệu, Đình Nhi đã phải phấn đấu suốt sáu năm trời. Cả năm lớp 5 và năm lớp 6 cháu đều đứng thứ 3 trong cả lớp. Riêng năm lớp 6, cháu đã lập được một kỳ tích là: Tất cả các bài kiểm tra toán đều đạt được điểm tối đa: 100 điểm. Tất cả những dấu hiệu đó, chứng tỏ rằng, còn những thắng lợi to lớn đang ở phía trước.

Nhưng không ngờ, vào đúng dịp nghỉ đông năm lớp 6, bỗng có một tin đồn làm mọi người đều phải thất vọng sững sờ: chính sách tuyển chọn học sinh tiểu học vào bậc học sơ trung năm nay ở Thành Đô sẽ có một sự thay đổi quan trọng, phương thức giới thiệu những học sinh tiểu học xuất sắc vào học thẳng tại các trường trung học trọng điểm đã bị phế bỏ, thay vào đó là một phương thức mới do “máy tính sắp xếp”. Tất cả những học sinh đã tốt nghiệp tiểu học, bất kể kết quả thi tốt nghiệp tốt xấu thế nào, đều được ghi cho một mã số. Máy tính căn cứ vào nguyên tắc sắp xếp theo khu vực, sắp xếp học sinh vào các trường trung học gần nhà nhất.

Thật đáng buồn, ở gần nhà chúng tôi chỉ có mấy trường trung học mà suốt mấy năm gần đây không có học sinh nào đỗ đại học.

Chúng tôi nơm nớp lo âu, đợi chờ xem liệu có sự thay đổi nào nữa không, và hy vọng những lời đồn đại kia chỉ là đồn nhảm. Nhưng lời đồn đại “do máy tính bắt thăm” lại là sự thật. Đối với những học sinh xuất sắc đang hy vọng được giới thiệu vào những trường có chất lượng cao, quả là một đòn trời giáng.

Dù thế nào cũng đều do máy tình phân công, vậy thì mọi sự cố gắng nào còn có ích gì đâu! Vài bạn học sinh giỏi ở lớp Đình Nhi bỗng sinh ra chán nản. Thời gian hàng ngày, lẽ ra phải “dùi mài kinh sử”, họ lại lao đầu vào những việc không đâu như xem phim ảnh, xem băng video, họ xem suốt ngày đêm, lên đến lớp vẫn còn say sưa kể lại cho các bạn bè nghe nữa.

Đình Nhi là người hiểu biết hơn các bạn cùng lớp. Vì vậy, nỗi buồn của Đình Nhi cũng sâu nặng hơn. Đây là cú sốc lớn đầu tiên trong đời Đình Nhi, không giống như lần bị truất chức quyền lớp trưởng năm xưa, chỉ cần thay đổi trạng thái tâm lý là có thể giải quyết được vấn đề. Lần này, Đình Nhi buồn hơn nhiều, không còn nghe thấy những tiếng hát tiếng cười, ríu rít suốt ngày của Đình Nhi nữa.

Vợ chồng tôi cũng lo lắng nhưng biết rằng, trong lúc này, lòng tin của chúng tôi có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với cháu. Ba đã động viên ĐÌnh Nhi: “Học sinh tốt sẽ được học trong trường tốt, đó là quy luật”. Tôi cũng động viên cháu: “Con không nên vì chưa nhìn thấy cá mà bỏ dở việc đan lưới, nên nhớ rằng, thời cơ chỉ đến với những người có đầu óc sẵn sàng đón nhận”.

Chúng tôi ky vọng qua sự vấp váp lần này, ĐÌnh Nhi sẽ học được cách “làm thế nào để vượt qua được những giai đoạn khó khăn của cuộc đời”. Cho dù người khác khi gặp phải khó khăn có thể sẽ rời bỏ mục tiêu, nhưng ĐÌnh Nhi dù thế nào cũng phải kiên trì phấn đấu cho lý tưởng của mình.

Sau vài lần nói chuyện, Đình Nhi đã trấn tĩnh lại được, cố gắng lao đầu vào những công việc chưa nhìn thấy có tia hy vọng cụ thể nào, lại tiếp tục gặm nhấm các đề toán khó của trường chuyên toán Olympic theo kế hoạch, mà còn chăm chỉ hơn trước đây. Chúng tôi có lần bảo cháu: “Khi người khác không làm, mình làm, chẳng phải rất dễ thành công hay sao?”

Chúng tôi không chịu khoanh tay ngồi chờ, mà đã bắt tay hành động ngay, cũng chạy chọt, nhờ vả, nghe ngóng khắp nơi. Kết quả là đã phát hiện ra, ngoài biện pháp máy tính bắt thăm, cũng còn một cơ hội khác là bỏ tiền ra để “chọn trường”. Các trường trung học trọng điểm đặt giá quá cao từ một vạn rưỡi đến hai vạn rưỡi đồng, tuỳ từng trường cho mỗi học sinh xuất sắc ngoài khu vực. Nộp tiền cũng không được coi là đã xong, rồi còn phải qua kỳ thi tuyển khá ngặt nghèo, thế mà mỗi một trường trọng điểm chỉ có được hơn chục chỉ tiêu cho học sinh ngoài khu vực, những học sinh đã nộp tiền, đợi vào thi lại đông như kiến cỏ.

Vẫn còn hai trường nữa, nhưng tiếng tăm chưa thật nổi trội lắm thời bấy giờ. Đó là trường trung học số 48, lần đầu tiên chiêu sinh một lớp Anh văn và một trường nữa là Trường Chuyên ngữ Thành Đô mới được thành lập. Bốn năm nay, trường Chuyên ngữ Thành Đô là một trong 14 trường do Bộ Giáo dục thành lập trên phạm vi toàn quốc. Lúc bấy giờ, khoá học sinh đầu tiên mới vào học năm thứ nhất bậc cao trung, chưa được cọ xát trong cuộc “thử thách khắc nghiệt” – thi vào đại học, chưa có được tiếng tăm như các trường khác đã liên tục nhiều năm có học sinh đỗ đầu trong các kỳ thi vào đại học. Hơn nữa, trường này lại đòi hỏi, ngay từ năm đầu bậc sơ trung học sinh đã phải vào nội trú. Điều này quả thực không hấp dẫn lắm đối với chúng tôi. Tôi rất lo là: Đình Nhi xa nhà quá sớm, hơn nữa phải nội trú quanh năm như vậy, sẽ mất đi cơ hội được cha mẹ dạy dỗ thường xuyên và kịp thời.

Làm  thế nào bây giờ? Đầu tư cho giáo dục, từ trước tới nay chúng tôi chưa bao giờ tiếc công tiếc của. Còn việc thi tuyển, Đình Nhi chỉ cần chịu khó hơn chút nữa là có thể đủ sức cạnh tranh. Thế nhưng, thi vào trường nào sẽ có lợi nhiều nhất cho sự phát triển sau này của Đình Nhi? Tôi dường như rơi vào sự dày vò đau khổ như lần trước đây từ bỏ kế hoạch bồi dưỡng “thần đồng”.

Sau khi suy nghĩ đắn đo suốt nửa tháng trời, anh Trương Hân Vũ hình như đã có được một quyết định, anh nói: “Chỉ cần Trung Quốc vẫn tiếp tục cải cách mở cửa, thì ngoại ngữ chắc chắn sẽ ngày càng có vị trí quan trọng. Anh tin rằng chúng ta có đầy đủ khả năng dẫn dắt Đình Nhi, con nó sẽ dễ dàng trải qua sáu năm nội trú. Dù cuối cùng Đình Nhi có thể thi đỗ vào trường nào chăng nữa, nhưng bây giờ những trường nào ta cảm thấy được, cứ cho Đình Nhi ghi tên dự thi”.

Những lời nói của anh làm tôi thấy yên tâm hơn. Và khi đã quyết định rồi thì Đình Nhi càng thêm bận rộn. Vừa tốt nghiệp tiểu học xong, giờ lại căng người ra chuẩn bị cho một cuộc thử thách mới.

Năm đó, cuộc cạnh tranh để thi vào Trường Chuyên ngữ Thành Đô khốc liệt chưa từng thấy. Do “Hiệu ứng thúc ép” của biện pháp “máy tính sắp xếp” mới được ban ra, hàng loạt học sinh vừa tốt nghiệp tiểu học thuộc loại giỏi, đều ùa đến chen lấn trước cổng trường này. Các cháu rất sẵn sàng lao vào một cuộc đấu đá bằng chính thực lực của mình, để thoát khỏi số phận do máy tính định đoạt. Đến trước ngày thi, số học sinh ghi tên dự thi đã lên tới hơn 6.000 người.

Hơn 6.000 thí sinh mà chỉ lấy có 120, tỷ lệ vào chỉ có 1,8%. Đây sẽ là một cuộc chiến đấu nảy lửa, và cũng là cuộc chiến đấu gay go nhất từ trước đến nay của Đình Nhi.

Mặt khác, kết quả của cuộc chiến đấu này sẽ làm cho hơn một trăm học sinh xuất sắc nhất tập trung tại một chỗ, hình thành nên một tập thể có tố chất giáo dục cao. Đây là một “mỏ vàng trữ lượng cao” của tài nguyên giáo dục. Và đây cũng là một cơ hội hiếm có đối với Đình Nhi. Nếu Đình Nhi có may mắn được học cùng những tài năng kiệt xuất đó, trong sự ganh đua khích lệ lẫn nhau, sẽ tạo ra một “hiệu ứng cộng hưởng” cực tốt. Trường Trung học Chuyên ngữ Thành Đô bỗng nhiên cao giá.

Ý chí quyết tâm và tinh thần hăng hái của cả nhà đều được động viên. Chúng tôi đặt kế hoạch cho Đình Nhi: “Thi viết phải cố gắng vượt lên hàng đầu, thi nói phải chiếm giải nhất”. Vì ĐÌnh Nhi là một học sinh trường chuyên toán Olympic thuộc loại “giữa đường nhập cuộc”, cho nên trong các kỳ thi Olympic Đình Nhi chỉ đạt được giải ba trong toàn tỉnh Tứ Xuyên. Điểm thi viết chắc chắn không thể bằng các bạn được giải nhất, giải nhì. Chúng tôi nhận định rằng, chỗ mạnh của cháu là thi nói. Kết quả, với thành tích điểm thi nói hơn điểm thi viết là 10, Đình Nhi đủ tư cách vào thi nói.

Để đạt được điểm cao trong thi nói, chúng tôi hướng dẫn cho Đình Nhi phải chuẩn bị đầy đủ. Ba mua cho Đình Nhi những cuốn băng học tiếng Anh tốt nhất, cẩn thận sửa từng âm cho cháu. Trước khi thi hai ngày, mẹ còn hướng dẫn cho Đình Nhi tư thế trả lời: nét mặt phải ra sao, tư thế phải như thế nào để thể hiện lòng tin tự chủ trước mặt ban giám khảo. Đình Nhi đã răm rắp làm theo, không những thế còn biết chủ động ứng phó theo nguyên tắc mà chúng tôi đã rèn luyện cho cháu. Bước chuẩn bị khởi đầu là khá thuận lợi. Hôm Đình Nhi đi thi, ba cũng phải trực tiếp ra trận, đến tận trường thi để cổ vũ cho con gái. Hôm đó trời lại mưa, ba đã phải đứng đội mưa bên ngoài phòng thi suốt hơn hai tiếng đồng hồ. Đến hôm thi nói, thì trời lại nắng như đổ lửa, mẹ lại thay ba đi cổ vũ cho Đình Nhi. Đình Nhi thấy lạ, hỏi: “Tại sao trong các cuộc thi Olympic, ba mẹ đều để con đạp xe một mình, mà lần này cả ba và mẹ đều phải đi theo?” Ba nói: “Có những lúc cần thiết, cũng phải dùng dao giết trâu để mổ gà, cốt để đảm bảo không có những sai sót ngoài ý muốn”. Câu nói này đã để lại một ấn tượng sâu sắc cho Đình Nhi. Sau này qua nhiều lần được nhắc lại, nó đã trở thành một phong cách làm việc cẩn thận, chu đáo và thận trọng của cháu.

Trong nắng vàng rực rỡ của Tháng 8 mùa thu, Trường Chuyên ngữ niêm yết bảng danh sách điểm thi. Tôi vội vàng dẫn Đình Nhi đi xem kết quả. Thầy giáo phụ trách phát giấy báo nhập học, giương kính rà soát một hồi trên bảng danh sách thí sinh hồi lâu, rồi ngẩng đầu lên nói: “Lưu Diệc Đình đỗ rồi!” Đang trong trạng thái tâm lý căng thẳng, hồi hộp đợi chờ, nghe báo đỗ, cháu vội lại ôm chầm lấy tôi vừa cười vừa nhảy nhót, không nén được sự vui mừng hét toáng lên: “Mẹ ơi! Đỗ rồi, đỗ rồi!” Thầy giáo phụ trách phát giấy báo hình như cũng vui lây, một tay giơ cao tờ giấy báo, tươi cười với Đình Nhi: “Cháu biết không? Tờ giấy này của cháu đáng giá hai vạn rưỡi đồng bạc đấy!”

Mấy năm sau khi Đình Nhi nộp đơn xin vào trường đại học Mỹ, trong tờ “Giới thiệu sơ lược Trường Đại học Harvard” có một câu nói làm cho Đình Nhi nhớ ngay đến kỳ thi vào bậc sơ trung năm nào: “Đại học Harvard xin tặng bạn một câu châm ngôn: Khi thời cơ đến, xin bạn hãy sẵn sàng”.