GỬI NHỜ BÊN BÀ NGOẠI, ĐÌNH NHI NGÀY ĐÊM NHỚ MẸ

Khi Đình Nhi được 1 năm 8 tháng, kế hoạch nuôi con của tôi đã gặp hai trở ngại lớn: một là tôi và cha Đình Nhi quyết định ly hôn, một khi thủ tục xong, tiền lương của tôi và phí nuôi dưỡng Đình Nhi chỉ đủ để duy trì mức dinh dưỡng cho Đình Nhi, không thể thuê bảo mẫu được; hai là công tác bình xét chức danh của hệ biên tập đã bắt đầu thí điểm. Tôi nhìn lên văn kiện mượn được của đơn vị thí điểm thấy: đối tượng biên tập viên trẻ mới có tác phẩm chứ chưa có văn bằng như tôi phải trải qua một quá trình học đại học tương đương đại học văn khoa mới được tham gia bình xét các chức danh. Hơn nữa tôi chỉ có thể lợi dụng những thời gian rỗi để học tại chức.

Làm thế nào đây? Phải hy sinh tiền đồ của mình để tiếp tục giáo dục Đình Nhi? Hay là hy sinh tương lai của Đình Nhi để hoàn thành việc tự học của mình? Đang trong lúc khó khăn thì mẹ và đứa em trai Vệ Trung của tôi đã ra tay cứu giúp. Bà ngoại và cậu yêu cầu tôi đưa Đình Nhi đến nhà bà ngoại ở Hồ Bắc để họ thay tôi chăm sóc Đình Nhi và thực hiện phương pháp giáo dục từ sớm theo yêu cầu của tôi.

Từ ngày 23 tháng 11 năm 1982 đến mùa xuân năm 1983, Đình Nhi sống bên bà ngoại và cậu. Khi đó, điện thoại còn thuộc loại đồ xa xỉ, cũng giống như những người bình thường, tôi chỉ có thể dùng phương thức viết thư để trao đổi thông tin. Trong lá thư đầu tiên sau khi trở về Thành Đô, tôi thỉnh cầu mẹ: “Mẹ có thể ghi chép lại một cách đơn giản tình hình phát triển của Đình Nhi không? Như: khi nào thì đo độ cao, cân nặng và là bao nhiêu? Khi nào thì bắt đầu nói những từ ngữ mới? Khi nào bắt đầu làm những động tác mới, v.v… Hoặc khi nào mỗi lần viết thư mẹ viết thêm vài câu, con giữ lại cũng được”.

Mẹ tôi không những ghi thư như tôi yêu cầu, mà còn kể tỉ mỉ việc em trai tôi đưa Đình Nhi đến tham quan vườn bách thú như thế nào. Đọc lại những lá thư quý báu của 17 năm trước, niềm yêu thương và lo lắng ngày nào như hiện lên trước mắt, tình cảm thân thiết đó khiến tôi xúc động đến mấy ngày mà vẫn chưa bình tĩnh lại được …

Từ khi Đình Nhi sinh ra, bình quân hai tháng phải chuyển nhà một lần, môi trường sống thay đổi liên tục đã mang lại cảm giác không an toàn cho cháu, chỉ còn sự ôm ấp của người lớn mà cháu thân thuộc mới có thể khiến cháu cảm thấy yên tâm. Bảy ngày sau khi rời Thành Đô, khi tôi dẫn Đình Nhi đi mua rau ở chợ gần nhà bà ngoại, Đình Nhi đột nhiên nói với người nông dân bán rau: “Cô bảo mẫu của cháu bỏ đi rồi!”. Đôi mắt sâu thẳm và ngữ điệu thổ lộ khiến tôi giật mình, mãi mãi không thể nào quên. Cháu không hiểu được là mình đã rời xa cô bảo mẫu Lý mà cho rằng cô Lý sớm hôm bên nhau nay đã từ bỏ cháu. Trong môi trường mới lạ, mẹ là mối dây liên hệ duy nhất với cuộc sống trước đây của cháu, mấy hôm sau, mẹ cũng đột nhiên biến mất trong một đêm tối mùa thu, sự mất mát là quá lớn.

Từ lá thư đầu tiên mà bà ngoại gửi cho tôi có thể thấy, khả năng ghi nhớ phát triển sớm của Đình Nhi đã khiến cháu cảm nhận được nỗi đau khổ của sự phân ly nhiều hơn sơ với những đứa trẻ đồng lứa.

 

… Đình Nhi luôn nhớ đến con và cô bảo mẫu của cháu. Khi ngủ trưa bèn đồi tìm phòng của con, mẹ nói phòng trước mặt là phòng của mẹ cháu, cháu lại khóc không ngủ ở chỗ đó nữa. Từ xa nhìn thấy một phụ nữ trẻ hơn nói đó là mẹ đi làm về, khi ăn cháu liền nói: “Mời mẹ xơi cơm, mời bà ăn cơm, mời cậu ăn, mời cả nhà ta ăn cơm…”. Có lúc cháu gọi mẹ là “mẹ bảo mẫu”, có lúc gọi “mẹ, mẹ”, lúc gọi là “bà ngoại”, có thể cháu thường nghĩ đến những người này nên gọi mẹ đến để an ủi mình.

 

Để sửa chữa cách xưng hô của Đình Nhi, bà ngoại đã nhiều lần nhắc cháu: “Bà là bà ngoại của cháu. Mẹ cháu đã trở về Thành Đô đi làm rồi”. Để thoả mãn khát vọng thường xuyên được gọi mẹ, Đình Nhi đã nghĩ ra một cách để hợp lý hoá sự xưng hô sai của mình:

 

… Tối qua có thể trong mộng cháu nhìn thấy con, buổi sáng tỉnh dậy bèn đến bên mẹ đòi gặp con mãi. Mẹ hỏi, có phải trong mơ cháu gặp mẹ không, cháu nói đúng. Khoảng 10 giờ tối hôm nay, cháu nói với mẹ: “Cháu làm Lưu Vệ Hoa, bà là mẹ”. Bởi vì trước đó mẹ có nói: “Bà là mẹ của Lưu Vệ Hoa, bà ngoại của Đình Đình”. Có thể thấy, suy nghĩ của cháu rất linh hoạt, nay cháu gọi mẹ là “mẹ mẹ”, mẹ liền đáp ứng, hết sức để cháu không nhớ đến các con …

 

Đây là lần giải quyết độc lập vấn đề phức tạp đầu tiên kể từ khi Đình Nhi ra đời. Đó là ngày 1 tháng 2 năm 1983, sau khi chúng tôi xa cách 2 tháng. Một năm sau, trước khi tôi đón cháu về Thành Đô, nỗi nhớ mẹ sâu sắc đã giống như một động cơ công suất lớn đã thúc đẩy nhanh sự phát triển năng lực tư duy trừu tượng của cháu. Trong thư ngày 10 tháng 5, bà ngoại đã viết:

 

… Đình Nhi vẫn gọi mẹ là mẹ như trước, mẹ nói gọi là bà ngoại, bà nội đều được nhưng không được gọi là mẹ. Đình Nhi nói: “Mẹ cháu ở Thành Đô, gọi mẹ thân thiết hơn!”. Khả năng ghi nhớ của cháu rất tốt, cháu vẫn thường xuyên nhắc đến cô bảo mẫu.

 

Khi bà ngoại viết thư cho tôi, nếu Đình Nhi còn thức bà liền bế cháu vừa viết vừa đọc, bởi vì cháu vừa muốn nghe lại vừa muốn nhìn. Khi tôi gửi thư, tôi cũng dành riêng một đoạn viết cho cháu hoặc viết vào một bưu thiếp đẹp để bà ngoại đọc cho Đình Nhi nghe.

Dạng thông tin truyền đạt bằng thư tín này đã để lại ấn tượng đặc biệt sâu sắc cho Đình Nhi. Ví dụ như trong lá thư đầu tiên gửi cho mẹ, tôi thỉnh cầu mẹ chú ý chăm sóc Đình Nhi, tôi có nhắc đến việc phải thường xuyên cho cháu ăn đậu phụ. Đình Nhi tuy không thích ăn đậu phụ của vùng Hồ Bắc, nhưg vẫn ăn một miếng, miệng nhắc: “Con nghe theo lời mẹ”.

LY HÔN KHÔNG LÀM THAY ĐỔI TÌNH CẢM BAN ĐẦU, KẾ HOẠCH NUÔI CON VẪN TIẾN HÀNH BÌNH THƯỜNG

 

Sau nửa năm làm thủ tục ly hôn, khi Đình Nhi vừa tròn 2 tuổi, tôi và cha của Đình Nhi chính thức huỷ bỏ quan hệ hôn nhân. Tiền đề đưa ra quyết định này là: tôi tin rằng tôi có khả năng đảm bảo hạnh phúc cho con gái; tuy một người cáng đang nuôi con thì điều kiện sống sẽ giảm sút, nhưng chỉ cần kế hoạch giáo dục thời kỳ đầu vẫn được thực hiện, Đình Nhi vẫn được nuôi dưỡng thành người khoẻ mạnh, tố chất ưu tú, có khả năng tạo ra cuộc sống hạnh phúc.

Trước khi Đình Nhi chuyển đến ở với bà ngoại, về cơ bản cháu vẫn ở vào trạng thái học tập bị động, sinh ra không lâu đã bị lôi kéo chạy trên con đường khia sáng, sau khi xa cách tôi, cháu tạm thời không còn người truyền đạt lượng lớn thông tin, nhưng thói quen học tập thì đã hình thành, giống một chiếc ô – tô không có phanh, vẫn tiến về phía trước theo quán tính.

Trong môi trường mới, cuộc sống của Đình Nhi không những có nhiều nỗi nhớ mới, mà còn nhiều nội dung mới mẻ. Nhà bà ngoại cách nhà trẻ không xa, trước khi nghỉ hưu bà ngoại đã xây dựng nhà trẻ thành một đơn vị tiên tiến, mọi người ở đấy rất tốt. Đình Nhi rất được các cô giáo hoan nghênh. Từ lúc cháu 1 năm 8 tháng, cháu đã hoà nhập vui vẻ cùng các cháu bé 3-7 tuổi khác, học tập tất cả những gì cháu thích.

Trong tháng đầu tiên khi tôi trở về Thành Đô, bà ngoại đã viết liền 3 lá thư miêu tả tình hình của Đình Nhi:

 

… Cháu rất thông minh, đầu óc phản ứng nhanh. Hai bà cháu đến nhà trẻ chơi, người khác làm động tác gì, cháu bèn học theo. Cháu học các cô giáo đánh trống, hát “ngồi xếp hàng, ăn hoa quả”, nhìn người khác chạy, hét “Chuẩn bị Chạy!”, về đến nhà lại đòi mẹ chạy cùng nó, lại hét to: “Chuẩn bị … Chạy!”.

 

 

… Buổi chiều một hôm chơi cùng lớp mẫu giáo bé, Đình Nhi nhìn thấy một bé trai do tranh nhau mà khóc, cháu bèn chủ động đến gần lau nước mắt cho bạn, dỗ anh dừng khóc. Ở nhà trẻ, cháu nghe được câu hát: “Chào mừng Đảng Cộng sản”, hai ngày sau cháu liên tục nói “Đảng Cộng sản”.

 

 

… Cháu học tiếng ếch kêu, học động tác của mèo con, chim bay, và cả động tác đánh đàn. Cháu đánh đàn và đòi mẹ vỗ tay, lại bắt mẹ đánh đàn để cháu vỗ tay. Đình Nhi vừa đánh đàn vừa hát bản nhạc “Một, một, ba, ba, năm, …” hoặc là ca khúc học được ở nhà trẻ, hát xong còn nói: “Hát rất hay! Hát rất hay!”.

 

Những biểu hiện của Đình Nhi khiến tôi rất vui, một tháng trước cháu còn học cái nọ cái kia dưới sự chỉ huy của tôi, xa cách mới được một tháng, cháu đã bắt đầu chỉ huy bà đóng kịch, tuy rằng đó chỉ là bắt chước hoạt động dạy học ở nhà trẻ, nhưng sự bắt chước có ý thức đó chính là thể hiện khả năng tổ chức lãnh đạo của Đình Nhi. Tôi thực sự kinh ngạc: giáo dục sớm thực sự có uy lực rất lớn đối với phát triển tiềm năng của trẻ sơ sinh.

Đình Nhi có thể chủ động học, cố nhiên tôi rất vui mừng, nhưng cũng có điểm không yên tâm. Thư của bà ngoại miêu tả hành vi của Đình Nhi rất nhiều, có cả những miêu tả ảnh hưởng của người lớn hoặc sự vật bên ngoài đối với cháu, nhưng không nói đến kế hoạch của người lớn, sự dẫn dắt có mục đích đối với cháu. Thế là trong bức thư thứ hai tôi đã nhắc nhở mẹ:

 

…Hiện nay ngoài ăn uống, chơi, ngủ, điều quan trọng nhất là phải bồi dưỡng năng lực và thói quen quan sát sự vật đối với Đình Nhi, vì khả năng quan sát là tiền đề quan trọng đầu tiên để phát triển trí lực. Đối với Đình Nhi mà mói, chính là phải cho cháu biết tên gọi những sự vật mà cháu nhìn thấy.

 

 

Chỗ mẹ có rất nhiều sự vật mới mà chỗ con không có như: nhà máy, đường sắt, thị trường tự do, hồ ao, ống hơi nước v.v… Phải dạy cháu nhận thức từng sự vật, gọi tên của chúng, ghi nhớ một số đặc điểm. Thí dụ: nhà máy có một ngôi là lớn, có rất nhiều đường ống, đường ống quanh co gấp khúc, để lộ ra hơi nước cuồn cuộn, hơi nước vừa ẩm vừa nóng, đó là do nước được đun nóng tạo thành nền v.v… Những cái đó, Đình Nhi không nhất định có thể nói được toàn bộ, nhưng người lớn thường xuyên giảng giải, tự cháu sẽ nhớ được. Đợi đến khi năng lực phát âm của cháu tăng cường thêm một bước, tự cháu có thể tổ chức lại những danh từ, lượng từ, hình dung từ mà cháu nhớ được, nói thành một đoạn. Điều đó là một quá trình rèn luyện rất lớn đối với năng lực ngôn ngữ, tích luỹ tri thức, năng lực tư duy và năng lực tổng hợp của cháu, tạo cơ sở vững chắc cho năng lực phân tích và năng lực viết của cháu về sau. Đó là dạy quan sát toàn bộ đối với sự vật.

 

 

Còn một dạng quan sát là phân biệt sự khác nhau giữa sự vật cùng loại, như khi nhìn con ếch bèn giảng sự khác nhau giữa ếch đực và ếch cái. Nhìn thấy cấy cối là giảng giải sự khác nhau về hình thái cây (thẳng, cong, khô, nhiều cành …), hình dạng chất lượng quả (mềm, cứng …) sự khác nhau về màu sắc, cách dùng. Những tâm lý người lớn này chỉ cần có điều kiện là thực hiện, nhìn thấy gì giảng nấy, và cũng không cần phải có kế hoạch gì. Nhưng muốn có hiệu quả tốt thì cần phải thường xuyên lặp lại nội dung trong một khoảng thời gian. Như nhận biết màu sắc, đợi cháu ghi nhớ màu đỏ, và màu xanh lục mới dạy cháu biết màu vàng và màu xanh lam, khi dạy màu sắc mới, có thể bất chợt cho cháu nhận biết màu sắc đã học qua để củng cố kiến thức.

Khi giáo dục Đình Nhi, có thể liên kết màu sắc và hình dạng để dạy như quả bóng đỏ, cửa màu vàng, thời màu xanh lam, mây màu trắng, cũng có thể quy loại sắc màu và hình dạng của sự vật để giảng như củ cà rốt màu đỏ, cây chuối cảnh cũng có màu đỏ, quần áo cũng màu đỏ; hoặc củ cải đỏ tròn, củ cải trắng tròn dài, bánh bích qui tròn mảnh v.v…

… Con biết rằng, giáo dục Đình Nhi là phải rất kiên tâm nhẫn nại, hơn nữa lại càng không thể mưu cầu thành công nhanh chóng, thế nhưng cả hai mẹ con mình đều tin tưởng rằng việc giáo dục sớm tất sẽ đem lại kết quả tốt và điều tâm niệm tạo nên môi trường sinh trưởng (vật chất và tinh thần) tốt nhất có thể cho Đình Nhi. Nếu như Đình Nhi có thể trở thành người tài năng hữu dụng, thì đó cũng là sự cống hiến của chúng ta đối với nhân dân, với Tổ Quốc. Do khoảng cách quá xa, trong thư có thể con nhắc lại cùng một sự việc (do không nhớ đã viết hay chưa), cũng có thể mâu thuẫn giữa phần trước và phần sau, xin mẹ hãy rộng lượng tha thứ. Hai mẹ con mình cùng khám phá những kinh nghiệm giáo dục sớm để có thể tạo ra càng nhiều những đứa trẻ có ích cho xã hội.

 

Nhận được thư, mẹ tôi lập tức tăng cường phần “giáo dục chủ động”, mặc dù việc chăm sóc ăn uống ngủ nghỉ hàng ngày cho Đình Nhi đã rất mệt, lại thêm bệnh đau dây thần kinh của người già thường xuyên xảy ra.

“CÁI ĐUÔI NHỎ” CỦA BÀ NGOẠI, NHÌN THẤY GÌ HỌC NẤY

Trong những ngày xa mẹ, Đình Nhi suốt ngày quấn lấy bà ngoại, giống như một cái đuôi của bà. Từng lời nói, việc làm của bà ngoại đều trở thành đối tượng bắt chước của Đình Nhi. Sự bắt chước này được thể hiện ngay trong lá thư đầu tiên của bà ngoại.

 

… Hai bà cháu đến nhà người khác chơi, khi trở về chủ nhà ra tiễn, mẹ nói: “Không cần đưa tiễn, mọi người còn đang bận kia mà”. Sau đó vào dịp khác, chủ nhà vừa đưa tiễn cháu đã nói: “Không cần tiễn, mọi người còn đang bận mà”. Cháu còn nói: “Đến nhà trẻ trượt cầu thang, ngồi ghế quay, ngồi thuyền đung đưa đi, bà!”. Một bé trai ở nhà bên cạnh đến chơi nhà chúng ta, mẹ nói cháu ra chơi với em, cháu lập tức nói: “Chớ đánh nhau!”.

 

Những lời nói này của Đình Nhi đều là nghe được từ bà ngoại. Chỉ có điều khi đó bà ngoại còn chưa biết Đình Nhi mới 1 năm 8 tháng mà đã nghe hiểu, nhớ lâu, còn dùng rất đúng tình huống.

Những tình tiết được miêu tả trong thư của bà ngoại có thể thấy, trong một tháng đầu xa cách mẹ, cơ quan phát âm của Đình Nhi đã phát triển thuần thục, không những có thể nói liền mạch nhiều câu hát mà năng lực biểu đạt tiềm ẩn cũng nhanh chóng được biểu hiện. Tuy rằng cháu mới được 1 năm 9 tháng tuổi nhưng cháu có thể sử dụng thoả đáng những từ vựng có ý nghĩa tu từ mà chỉ những đứa trẻ 4 tuổi mới bắt đầu sử dụng, như “lập tức, hiện tại, nhanh một chút, …” v.v… Cháu bắt đầu vận dụng từ vựng một cách hợp lý, vận dụng hoàn chỉnh hợp lý để biểu đạt những yêu cầu của cháu giống như một người lớn.

Khi tôi mới rời xa, bà ngoại cho rằng Đình Nhi còn quá nhỏ nên không chuẩn bị dạy cháu đọc thơ cổ. Nửa tháng sau, khi bà ngoại dùng lời ca ru cháu ngủ, Đình Nhi bỗng nhiên nói một câu: “Bây giờ cháu dạy bà hát bài Con ong nhỏ.”. Sự chuẩn xác trong cách dùng từ, sự hoàn chỉnh của câu chữ mà cháu dùng khiến bà bắt đầu lựa chọn những câu thơ cổ để dạy Đình Nhi. Đầu tiên bà ngoại giảng hàm nghĩa của mỗi câu thơ, sau đó dạy cho Đình Nhi đọc thuộc lòng.

Nhà bà ngoại không có người giúp việc, mọi việc trong gia đình đều phải tự tay bà làm. Bắt chước bà ngoại làm một số việc nhỏ cũng là một trong những nội dung “học chủ động” của Đình Nhi. Những sự bắt chước này đều rất có giá trị trong việc học tập thường thức cuộc sống và tích luỹ kinh nghiệm xử lý công việc cho trẻ nhỏ. Trong thư bà ngoại viết:

 

… Ngày mai Đình Nhi vừa tròn 1 năm 10 tháng tuổi. Hôm qua ở trong nhà bếp, mẹ xào rau, cháu cũng lấy đồ để xào, đòi bỏ mỡ, muối, xì dầu vào, cháu lại còn đòi nếm thử rau. Cháu biết rằng mây mù ở trên trời, mẹ xay sữa đậu nành cháu còn đến giúp bón đậu vào cối. Rửa mặt, rửa tay, bôi dầu gội … nói chung cháu đều đòi tự mình làm được.

… Có lúc Đình Nhi cầm một cốc nước đến chiếc bồn tưới hoa, vừa làm vừa nói: “Tôi có việc, tôi bận”. Có lúc tự mình cầm giẻ lau lau sạch sẽ các ghế ngồi, vừa làm vừa nói: “Tôi đang làm vệ sinh”.

Trong giai đoạn học tập lấy bắt chước làm chính, năng lực sáng tạo của Đình Nhi cũng bắt đầu manh nha. Khi cháu học được những khúc hát mà bà ngoại hát ru ngủ bèn bắt đầu yêu cầu bà ngoại đổi lời hát.

… Ngủ vẫn đòi hát “Con ong nhỏ”. Có lúc cháu đòi hát “Con ong lớn”, mẹ liền hát “Con ong lớn bay vù vù, bay đằng tây, bay đằng đông, yêu học tập, yêu lao động”. Có lúc mẹ hát: “Nhà ta có em bé béo”, cháu lại đòi mẹ hát “Anh béo”, cháu rất vui.

 

Bà kêu: “Đình Nhi rất thông minh, phương pháp giáo dục của mẹ có lúc theo không kịp”. Khi Đình Nhi không muốn đọc những câu thơ cổ đã thuộc lòng và nhàm chán, bà ngoại cũng không còn cách nào. Tôi vội vàng mua hơn chục cuốn sách báo trẻ em, gửi về cho bà trước ngày Tết Nhi đồng 1 – 6 để làm tài liệu dạy cho Đình Nhi. Trong thư gửi cho bà ngoại, tôi viết:

 

… Hy vọng mẹ và cậu Vệ Trung bớt chút thời gian giảng cho Đình Nhi nghe. Sách phải cho cháu xem từng cuốn từng cuốn một, chứ đừng cho cháu nghịch và cũng tránh để cháu xé rách. Nếu như giữ gìn tốt, có thể để lại cho con của Vệ Trung xem. Có điều đó không phải là chủ yếu, điều chủ yếu là phải bồi dưỡng niềm tin hứng thú và cảm tình của cháu đối với sách, luyện thành thói quen yêu sách. Ngoài ra, mỗi lần không nên xem quá lâu để tránh cho trẻ chóng chán.

Để huấn luyện các cơ tay, chuẩn bị cho cầm bút sớm, tôi còn đặc biệt dặn dò:

… Đình Nhi bắt đầu học mặc quần áo phải không? Cần phải dạy cho cháu cài cúc như thế nào, có thể dạy cho cháu dùng đất sét nặn quả táo, củ cải, quả chuối … Còn có thể nặn một số dụng cụ làm việc, động vật …

 

Đình Nhi nghe được thư này, mỗi lần mặc quần áo đều nói: “Mẹ dạy con mặc quần áo?”. Mỗi lần xem sách bèn nói: “Mẹ bảo con phải xem từng cuốn sách một.”. Đình Nhi còn thường xuyên nói: “Mẹ thích nhất con, gửi sách cho con xem”. Cháu sợ bà ngoại báo những khuyết điểm của cháu cho tôi, bèn nói: “Báo cho mẹ, mẹ sẽ không gửi sách cho cháu và cũng không yêu cháu nữa”.

Sau Tết Nhi đồng 1 - 6, ông ngoại của Đình Nhi từ Đại học Ngạc Tây về Vũ Hán dự “Hội nghị đại biểu tiên tiến”, sau đó có ghé qua nhà, lần đầu tiên gặp cháu ngoại, những biểu hiện của Đình Nhi khiến ông vừa kinh ngạc lẫn mừng vui. Ông viết thư nói:

 

… Đình Nhi tuy chỉ là đứa trẻ trên hai tuổi, nhưng cháu rất thông minh. Chưa đọc thư cho ông nghe, đọc rất diễn cảm. Cháu biết nói rất nhiều lời của người lớn, phân biệt được cả “thói quen tốt” và “thói quen xấu” … Bố đưa cháu lên phố mua đồ, mua bốn chai bia, dùng túi ny-lon để đựng. Cháu nói: “Túi nhỏ thế rất nguy hiểm”. Cháu rất thích ăn cháo, ăn xong lại đòi rửa bát cho bà, rửa từng cái từng cái rất sạch. Có lúc, cháu cầm một cuốn sách, ngồi nghiêm túc trên ghế, miệng lẩm bẩm. Bố hỏi cháu: “Đình Nhi, cháu ngâm nga cái gì đấy?”. Cháu nói: “Cháu yêu mẹ, mẹ yêu cháu…”. Có lúc bố nói: “Đình Nhi, lại đây thơm ông một cái”. Cháu liền đầu tròn môi, hướng về phía bố, hôn bố chùn chụt một cái, xong cười ha, ha, ha … Về nhà mới ba ngày mà vui gấp nghìn lần, 99% là do sự hồn nhiên của trẻ nhỏ mang lại.

 

Thú vị nhất là hôm ra đi, cháu muốn rửa chân giúp ông. Cháu mang một cái cốc nước đến: “Ông ơi! Rửa chân!”, bố đưa chân ra, cháu liền giúp bố cởi tất, sau đó dùng một tay đỡ chân, motọ tay dội nước vào, sau đó kỳ cọ bàn chân, ngón chân đến gót chân. Rửa xong còn dùng khăn lau khô, sau đó mang giày lại cho ông đi. Quá trình làm của cháu hết 10 phút, đến khi sạch sẽ mới thôi. Không ngờ một đứa trẻ mới hơn 2 tuổi mà đã làm được như vậy, khiến bà ngoại cũng phải cười khen.

CẢ NHÀ ĐỒNG TÂM NUÔI DẠY “BÉ BÉO”

Thời kỳ năm 1983, ly hôn còn là một việc động trời và được coi là trái với tập tục, những người thân của tôi đều cho rằng Đình Nhi quá bất hạnh, nên càng thương cháu. Tết đến, bác dâu về nhà chồng ăn Tết đã mua cho Đình Nhi mấy bộ quần áo mới. Đan Lệ, vợ chưa cưới của cậu Vệ Trung, cũng vội đan cho Đình Nhi chiếc áo len.

Thời kỳ đó, thịt, trứng, rau quả đều khó khăn không phải mua là có ngay được. May mà cậu Vệ Trung có mấy người quen là lái xe, nên thường giúp mua sắm, đảm bảo tiêu chuẩn dinh dưỡng theo định lượng cho Đình Nhi: mỗi ngày nửa cân (0,25 lít) sữa, một quả trứng hoặc là hai bìa đậu phụ, một lạng (0,05 kg) thịt nạc hoặc cá, sau giấc ngủ trưa còn có hoa quả. Cách ăn cũng theo yêu cầu của tôi: mỗi bữa trước tiên cho cháu ăn hết lòng trắng trứng, sau đó cho cháu ăn cơm và rau, giữa hai bữa vẫn định kỳ uống nước, không cho cháu ăn linh tinh. Phương pháp này khiến Đình Nhi phát triển rất chắc mà không bị béo phì. Cậu viết trong thư nói:

 

…Cháu rất thích ăn nội tạng động vật như dạ dày, gan, bầu dục. Cháu nói là cháu là “bé bị thịt”. Cháu đặc biệt thích ăn cá. Ở đây có rất nhiều loại thức ăn để thay đổi món, hiện nay có lươn ếch.v.v… Chúng em thường chế biến thay đổi để cháu không bị chán.

 

Đình Nhi vừa tròn 2 tuổi đã có tính tự giác cao, rửa mặt cũng đòi tự mình làm, mọi sự việc bất kể có làm được hay không nhưng đều đòi tự làm. Để giáo dục tính độc lập của cháu, bà ngoại cũng ra sức thoả mãn nhu cầu của Đình Nhi. Nhưng Đình Nhi vẫn còn là đứa trẻ chưa hiểu nhiều sự việc, trước ngày sinh nhật không lâu còn làm một chuyện ngốc nghếch: Cháu nhìn thấy trong ti vi cảnh vận động viên nhảy cầu từ trên cao xuống, liền đem chiếc ô tô đồ chơi mà cậu mua cho ném từ trên tầng ba xuống, nói rằng: “Để cho ô tô bơi!”. Có khi vì sợ Đình Nhi bị bỏng lửa, bỏng nước nóng, bà ngoại đành phải để cho cháu khóc vài tiếng.

Trong mắt của bà ngoại “khuyết điểm” phải nhắc đến nhất đó là Đình Nhi thường có những hành vi tấn công như đánh, mắng những người lạ (đều là người quen của bà ngoại và cậu) đến hỏi han, xoa đầu cháu. Tôi đoán đó là nỗi sợ tái diễn cảnh tượng đau khổ “xuất hiện người lạ à mất đi người thân à mất đi cảm giác an toàn” từ đó mà áp dụng “biện pháp tự vệ”. Để sửa đổi thói quen này cho Đình Nhi, ngoài việc dạy cho cháu nhận biết những sự vật mới, bà ngoại còn trọng điểm tiến hành giáo dục đạo đức, lễ phép cho Đình Nhi, không cho phép cháu đánh, mắng chửi người khác, gặp người khác phải chào hỏi như: chào ông, chào bà, chào chú. Không lâu bà ngoại đã giành được những kết quả khả quan.

 

… Những khi nhà không có khách, mẹ thường giảng cho cháu hiểu đạo lý, dạy cho cháu phải biết yêu mến, nhiệt tình đối với người khác, cháu đã biết tiếp thu. Như gần đây có ông Tề (nhạc phụ tương lai của cậu Vệ Trung) đến, cháu rất nhiệt tình chào ông, lại còn lấy thuốc cho ông, sau đó đem gói thuốc bỏ vào trong túi ông. Cháu biết mời ông uống trà, chủ động đặt cái ghế con trước tủ đựng đồ ăn sau đó tự trèo lên ghế lấy lạc và dưa đến đặt bên cạnh ông, mời ông ăn.

 

Cậu Vệ Trung còn tả tỉ mỉ những tiến triển mới về mặt năng lực biểu đạt và năng lực quan sát khi Đình Nhi được 2 năm 2 tháng.

 

… Ngày 29 tháng 5, em đưa Đình Nhi đến công viên Trung Sơn chơi nửa ngày. Khi mua vé vào cổng, Đình Nhi nói: “Cậu vào mua vé, cháu ở ngoài đợi cậu”. Khi vào trong công viên cháu nhìn thấy người khác bơi thuyền bèn nói: “Đợi cô Đan Lệ đến, chúng ta cùng bơi thuyền, nếu chỉ có hai cậu cháu thì không bơi. Có cô Đan Lệ đến vui hơn nhiều”. Những lời đó đều do tự Đình Nhi nói ra. Hôm đó em không muốn cho cháu đi bơi thuyền, một là thời gian gấp gáp, hai là vì chỉ có mình em, không có người trông nom cháu ngộ nhỡ gặp nguy hiểm, nên chuyện bơi thuyền phải dẹp sang một bên. Sau đó hai cậu cháu đến khu động vật. Hôm ấy thời tiết tốt nên mọi chim sẻ đều hót líu lo. Đình Nhi vui vẻ nói: “Ở nhà ta cũng có con chim đang hót (chỉ trong sách)”. Khi nhìn thấy báo biển, mọi người đều nói có hai con, nhưng Đình Nhi chỉ nói có một con thôi, nói đã bơi ngược lại. Thực tế, đích thực chỉ có một con báo biển, nó lúc bơi thẳng, lúc bơi ngược lại …

 

Khi Đình Nhi được 2 năm 3 tháng, để nâng cao cảm hứng đọc thuộc thơ của cháu, bà ngoại đã chọn một số bài thơ cổ có vẽ những cảnh rất đẹp, minh hoạ. Có cả bài thơ đếm số rất hay: “Một hai đi ba dặm, khói bếp bốn năm nhà, đình dài bảy tám chiếc, tám chín mười nhành hoa”. Bà ngoại viết thư nói:

 

… Đình Nhi thích đọc nhất câu thơ “Sàng tiền minh nguyệt quang (Ánh trăng sáng trước giường)” của Lý Bạch. Có lúc đọc đến câu: “Đê đầu tư cố hương (Cúi đầu nhớ cố hương)”, Đình Nhi bèn hỏi: “Quê hương của cháu ở Thành Đô, quê hương của bà ở đâu?”.

 

Ngoài ra, bà ngoại còn thông báo cho tôi biết “động hướng mới” của Đình Nhi: học chữ và chắc chước chị ở nhà đối diện vẽ.

 

… Cháu vừa vẽ vừa nói: “Em vẽ một quả cầu và vẽ một chiếc thuyền”. Sau đó cháu vừa vẽ lại vừa nói: “Đây là tượng trưng cho nước”. Mỗi lần vẽ cháu đều nói: “Vẽ xong gửi cho mẹ, mẹ sẽ rất vui mừng”.

 

Cùng với sự chuyển dịch của thời gian, tình cảm của Đình Nhi đối với bà ngoại, đối với cậu ruột ngày càng sâu sắc. Bà ngoại và cậu vẫn sống như trước đây, có một vai trò thúc đẩy sự phát triển trí lực của Đình Nhi. Có thời gian cậu ruột rất bận công tác và tự học, ngoài ra, còn phải lo chuẩn bị hôn nhân, thời gian ở cạnh Đình Nhi rất có hạn, Đình Nhi đã đem tâm nguyện của mình tạo thành một bài ca trẻ em:

“Bà ngoại thân yêu,

Cậu ruột thân yêu,

Luôn bên Đình Đình;

Đình Đình luôn bên

Bà ngoại và cậu mình”.

Cậu viết trong thư:

 

 

… Bây giờ cháu có thể nghe được tiếng bước chân của em và báo cho bà: “Cậu đã về rồi”. Hôm nay em đi mua gạo, bỗng nhiên trời mưa to, Đình Đình nói với bà: “Ngớt mưa cháu sẽ đem ô cho cậu”. … Buổi tối bà ngoại tắm rửa cho cháu, cháu chủ động nói: “Bà ngoại, có lẽ cháu phải trở về Thành Đô, cháu ở đây khiến bà vất vả quá!”.

 

Không ngờ rằng, ở Hồ Bắc, Đình Nhi còn học được lòng thương người. Giả sử những thứ khác đều không học được, thì tôi cũng nghĩ rằng chuyến đi này thật không uổng phí.

MẸ CON HỘI NGỘ “NGHIỆM THU” RẤT MÃN NGUYỆN

Thời gian trôi nhanh, Đình Nhi đã sống ở nhà bà được hơn một năm. Cháu bắt đầu tỏ ra chán ghét những tri thức vốn đã thuộc làu làu trong lòng. Bà biết được rằng sự giáo dục của mình không thể theo kịp sự phát triển trí lực của Đình Nhi, hy vọng tôi sẽ trực tiếp giáo dục ở bước tiếp theo. Vì Đình Nhi và cũng vì để cho bà vất vả đã lâu nay có thể đến trường của ông để đoàn tụ, tôi quyết định lợi dụng kỳ nghỉ thăm nhà trong dịp tết năm 1984 đưa Đình Nhi trở về Thành Đô.

Để tránh thời gian cao điểm chạy tàu, tôi quyết định đi vào hôm tất niên. Buổi tối hôm trước trên tàu còn đông như nêm cối,, vậy mà giờ lặng ngắt không một bóng người. Trong toa chỉ có tôi ngồi. Tuy có thể nằm xuống chỗ ngồi của ba người nhưng lại lạnh đến nỗi không thể chợp mắt. Qua một đêm, cuối cùng vào ngày mồng 1 Tết, tôi đã nhìn thấy đứa con gái mong mỏi bấy lâu được gặp mặt.

Nỗi niềm vui mừng của cảnh đoàn tụ kể sao cho hết, tình hình về Đình Nhi cũng khiến tôi hết sức hài lòng.

Tính cách của cháu phát triển rất lý tưởng, nhiệt tình, chủ động, ý thức tham dự rất mạnh. Ngày Tết, những người đến chúc Tết bà ngoại rất nhiều. Mỗi khi có khách, Đình Nhi lại ra giúp tiếp đãi khách, lại còn chủ động biểu diễn tiết mục, khách vỗ tay tán thưởng khiến Đình Nhi càng phấn khởi, cháu thường kéo tay khách khi ra về: “Các bà đừng đi, cháu còn chưa biểu diễn hết cơ mà …”. Bà ngoại vội vàng nói giúp khách rằng, mọi người còn phải đi chúc tết những nơi khác. Nếu muốn để Đình Nhi biểu diễn hết thì phải mất một tiếng đồng hồ, vì ngoài biểu diễn ca múa, đọc thơ, cháu còn thích tự biên tự diễn, những bài ca múa do cháu hứng khởi sáng tác phải đến khi bản thân thấy mệt cháu mới kết thúc.

Khả năng lý giải và khả năng tự kiềm chế của Đình Nhi vẫn phát triển tốt, phàm là những việc không cho phép cháu làm, chỉ cần giảng giải kỹ đạo lý cho cháu, cháu sẽ nỗ lực tự kiềm chế không làm. Thí dụ: cậu Vệ Trung nhờ bạn cùng học mua ở Thẩm Quyến về một chiếc raido cassete âm thanh nổi, cậu thường ghi những lời bài hát, lời đọc thơ, lời nói của Đình Nhi vào trong băng, sau đó mở ra cho cháu nghe, để cổ vũ cháu học tập. Đình Nhi rất muốn chơi đùa với chiếc radio cassete, nhưng cậu Vệ Trung không cho Đình Nhi động đến đài, nói để đến khi lớn lên sẽ dạy cháu cách dùng, cháu bèn nhẫn nại không động đến.

Có lúc, bạn cùng học của cậu cho Đình Nhi nghịch cassete, Đình Nhi liền nói: “Đợi đến khi cháu đi học, cậu sẽ dạy cháu, cậu yêu cầu cháu bây giờ không được động đến”. Quan niệm phải trái của cháu rất rõ, có lần cháu làm việc trái, bèn chủ động thỉnh cầu trừng phạt: “Bà đánh cháu đi!”. Nếu như có đạt thật một hai roi cháu cũng không khóc. Năng lực tư duy trừu tượng của Đình Nhi phát triển rất nhanh, đã có thể suy diễn lô-gíc theo chuẩn mực. Trong hơn 10 ngày đợi tôi đến đón, Đình Nhi nói: “Cháu muốn có mẹ!”. Cậu ruột đùa nói: “Cậu muốn coóchị, cháu đòi được chị cậu đến, cháu sẽ có mẹ!”. Đình Nhi suy nghĩ một lát liền nói: “Cậu yêu cầu mẹ cháu tới, cậu sẽ có chị!”. Nhiệt tình học tập của Đình Nhi rất cao, bà ngoại dạy cháu học câu thơ: “Gà cất gáy, trời hửng sáng, mọi người thức dậy mở cửa…”. Trên đường từ phía nam đến phía bắc nhà máy, cháu nhìn thấy một con gà trống liền đọc lại câu thơ trên. Nửa năm trước khi tôi trở về thăm nhà, cháu đã nhận biết hơn 20 cuốn sách tranh thiếu nhi, lần này cháu còn có thể vừa lật sách vừa giảng cho tôi những nội dung cháu đã đọc thuộc như “Bướm đến nhà hoa” và “Câu chuyện bốn mùa …”. Cháu còn rất thích trò chơi chữ, một loại là từ phản nghĩa, một loại là từ đồng âm.

Đối với từ phản nghĩa, cháu bắt đầu biết từ khi 2 năm 3 tháng tuổi. Bắt đầu cũng rất ngẫu nhiên. Hôm đó, bà ngoại và Đình Nhi đứng trên sân thượng nhà bốn tầng, bà ngoại tự nhiên nói một câu: “Đứng thật cao, nhìn thật xa”. Khi trở về phòng bếp, Đình Nhi tự nhiên nói: “Đứng thật cao, nhìn thật xa”, bà ngoại nghe vậy rất mừng bèn giảng giải cho Đình Nhi: “Bà nói đứng thật cao, cháu phải đối lại là nhìn thật xa” và luyện vài lần cho Đình Nhi. Bữa cơm trưa ngày hôm sau, cậu Vệ Trung nói: “Đứng thật cao”, Đình Nhi bèn mở to mồm đối lại: “Nhìn thật xa”; cậu nói: “Nhìn thật xa, Đình Nhi đối lại: “Đứng thật cao”. Khi tôi biết được sự việc này từ trong thư, tôi lập tức thỉnh cầu mẹ bắt đầu cho Đình Nhi học từ phản nghĩa. Khi tôi về thăm nhà vào dịp hè, tôi lại dạy cho Đình Nhi một số từ phản nghĩa, có lẽ những trò chơi này đã không ngừng thức tỉnh cháu chú ý phân biệt sự vật, chơi mấy tháng mà vẫn không thấy chán.

Đối với những từ đồng âm thì là do trước Tết cháu học được từ một bài hát như sau:

Hoa đo đỏ, cỏ xanh xanh

Hát bài ca, cười yên ngựa

Ngựa gì? – Ngựa to

Gì to? – Núi to

Núi gì? – Núi cao

Gì cao? – Tháp cao

Tháp gì? - Bảo tháp

Gì bảo? - Quốc bảo

Gì quốc? – Trung Quốc

 

Tôi cảm thấy hình thức hỏi đáơ của bài này rất thú vị. Chỉ cần đổi câu sau thành: Gì quốc? Trung Quốc. Gì trung? Miền trung, hoặc Lòng trung, Gia trung … sẽ có thể biến thành một phương pháp huấn luyện từ vựng lớn vô hạn. Vậy là, trước tiên tôi dạy Đình Nhi chơi trò đếm số, người thua hỏi, người thắng trả lời, khi không trả lời được sẽ mất tư cách trả lời, biến thành người hỏi. Để Đình Nhi học được nhiều từ mới trong trò chơi, tôi thường “mượn” một từ cho cháu khi cháu không trả lời được. Mỗi lần tôi trả lời hoặc mượn cho cháu từ mới, tôi liền nhân cơ hội đó giảng giải một lượt cho cháu hiểu, sau đó lại chơi tiếp. Đình Nhi rất thích thú trò chơi đối từ này, và cho mãi đến khi cháu vào tiểu học, cháu vẫn thường lợi dụng lúc chúng tôi cùng đi trên đường để đòi cùng tôi chơi trò “đối từ”. Trò chơi đó đã nhanh chóng củng cố và phát triển từ vựng của Đình Nhi.

3 TUỔI KIỂM TRA TRÍ LỰC ĐÃ NHẢY MỘT BƯỚC ĐI VẠN DẶM

Phương pháp giáo dục này còn mang lại thành công ngoài dự đoán: tại căn nhà mới của Vệ Trung và Đan Lệ, tôi phát hiện một cuốn sách “Bách khoa toàn thư nhật dụng gia đình”. Trong sách có một phần “Bảng trắc lượng trí lực nhi đồng nhóm tuổi 3 – 7”. Bảng trắc lượng này do Belner, nhà tâm lý học người Pháp và Simon, nhà tâm lý học người Mỹ cùng biên soạn. Với sự hiếu kỳ cao độ, tôi đã dùng nó để kiểm tra trí tuệ của Đình Nhi, muốn kiểm nghiệm xem những nỗ lực gần 3 năm qua của mình đã đạt được kết quả như thế nào.

Dạng trắc lượng này chính alf sự so sánh giữa tuổi trí lực nhi đồng và tuổi thực tế để phán đoán mức độ trí lực, công thức của nó là tuổi tâm lý + tuổi thực tế = thương số trí lực. Nói cách khác, nếu một đứa trẻ vượt qua được trắc nghiệm mà bình quân những đứa trẻ 3 tuổi mới có thể vượt qua thì tuổi trí lực (tức là tuổi tâm lý) của trẻ là 3 tuổi, vượt qua trắc nghiệm mà những đứa trẻ 4 tuổi mới có thể vượt qua thì tuổi trí lực của đứa trẻ là 4 tuổi. Cứ như vậy tịnh tiến dần lên. Trong trắc nghiệm, nếu vượt tuổi thực tế thì mỗi một đề trắc ngiệm được tăng thêm 2 tháng tuổi trí tuệ, ngược lại cũng như vậy. Nếu như tuổi trí lực là 8 tuổi, tuổi thực tế mới chỉ có 6 tuổi, thương số trí lực là 8: 6 x 100 = 133, nếu như tuổi trí lực là 8 tuổi thực tế là 12, thương số trí lực là 8: 12 x 100 = 67.

Lần đầu tôi trắc lượng trí lực cho Đình Nhi là vào trung tuần tháng 2 năm 1984, Đình Nhi kém 1 tháng thì đây 3 tuổi, tuổi trí lực đo được là 5 tuổi 4 tháng, thương số trí lực là 183. Cháu đều vượt qua toàn bộ những đề trắc lượng về năng lực ngôn ngữ ở nhóm 3 – 7 tuổi; cháu cũng vượt qua tuyệt đại bộ phận đề của nhóm 3 – 7 tuổi về mặt thường thức (như giữa gỗ và kính có gì khác nhau); cháu chỉ không làm được một đề (Đổi số có 3 chữ số); trong số bảy đề ở bộ đề trắc nghiệm ở nhóm 7 tuổi, cháu cũng không thể vượt qua một số đề của nhóm 4 – 6 tuổi (như vẽ hình học, buộc dây thừng).

Kết quả này đã đủ làm phấn chấn lòng người. Theo thống kê điều tra của các nhà tâm lý học, ở độ tuổi lên 3, một đứa trẻ có độ tuổi tâm lý “sớm 2 năm” là tuyệt đỉnh thông minh, trong 5 vạn người mới có một.

(Cần phải nói thêm là đến 13 tuổi sự “sớm 2 năm” sẽ không có gì đặc biệt nữa. Bởi vì con người ở khoảng 6 – 12 tuổi sự tăng trưởng trí lực có quan hệ trực tuyến với tuổi đời, sau 12 tuổi sẽ rất khó căn cứ vào sự tăng trưởng của tuổi đời để phán đoán trình độ trí lực của người. Vì thế, thương số trí lực của người 12 tuổi đến trưởng thành phải dựa vào góc độ thống kê học để tính toán, tức là coi điểm bình quân đạt được qua trắc nghiệm của người cùng lứa tuổi là 100, lấy dãy phân số thuộc điểm giành được của người đó để đoán định vị trí điểm trí lực của anh ta trong số người cùng lứa tuổi).

Để kiểm nghiệm tình hình phát triển trí lực của Đình Nhi theo tiêu chuâẩ Trung Quốc, tôi đã nhờ mẹ mình mượn cuốn “Đại cương giáo dục nhà trẻ” do Uỷ ban giáo dục quốc gia phát hành. Đối chiếu kết quả cho thấy, Đình Nhi đã nắm được toàn bộ nội dung giảng dạy của lớp mẫu giáo nhỏ và mẫu giáo lớn. Nói một cách khác, nhìn từ góc độ nắm vững tri thức, cháu đã có thể trực tiếp học tiểu học.

Thế nhưng, tình hình Trung Quốc khi đó không thể cho phép tôi thực hiện được kế hoạch của mình: do ngân sách giáo dục có hạn, nhà nước quy định 7 tuổi mới được vào tiểu học. Tôi thì vừa không có tiền để nuôi gia sư dạy cháu học tiểu học, lại vừa không thể vứt bỏ công việc của mình để dạy cháu. Đó là điểm mà tôi không thể sánh kịp những người đi trước trong thực hiện giáo dục từ sớm ở Âu Mỹ và Nhật Bản.

Có điều, tôi đã sớm có sự chuẩn bị tư tưởng cho việc này. Đó là hiện thực mà tuyệt đại đa số những gia đình ở Trung Quốc phải đối mặt. Tôi nghĩ, trong điều kiện như vậy nếu mình có thể mò mẫm ra một con đường giáo dục cho trẻ có trí lực sớm, thì chẳng phải càng có ý nghĩa hơn hay sao? Khi đó, kế hoạch của tôi là phải tìm cho Đình Nhi một nhà trẻ thật tốt tại Thành Đô, sau giờ làm việc phải dốc sức dạy con tất cả những điều cần dạy, mà trọng điểm là tập đọc tiếng Hán và học tiếng Anh.

Vì việc học đọc tiếng Hán, có thể nói đây là một sai lầm rất đáng tiếc của tôi trong việc giáo dục Đình Nhi từ 0 đến 3 tuổi. Khi đó, tôi chỉ nghĩ được rằng “học chữ” trong giai đoạn trẻ con đang tập ghi nhớ bằng hình mẫu chưa có tác dụng gì, không thể dùng để đọc sách, mà không nghĩ rằng có thể lợi dụng phương thức ghi nhớ theo hình mẫu để trực tiếp học các từ ngữ tiếng Hán, cũng giống như học tiếng Anh bắt đầu từ việc học từ đơn âm tiết. Mặc dầu vậy ngay từ khi Đình Nhi mới được 2 năm 4 tháng tuổi, đã tự phát nhận biết được tên của mười mấy quyển truyện tranh nhi đồng. Tôi và mẹ đã chưa biết kịp thời phát huy tác dụng khả năng học tập này.

Bảy năm sau, một tổ chức chuyên nghiên cứu về giáo dục từ sớm cho trẻ nhỏ của Trung Quốc đã xuất bản một cuốn sách cho lưu hành nội bộ có tên “Phương pháp bồi dưỡng cho các cháu có tư chất thông minh”, trong đó có nói đến phương pháp làm thể nào để dạy cho trẻ em dưới 1 tuổi học chữ. Đại ý là lợi dụng những nguyên lý của phương pháp nhớ theo hình mẫu để trẻ con nhận biết mặt chữ trên các tấm bìa cứng giống như việc nhận biết hình vẽ các đồ vật vậy. Cứ thế luyện tập mãi mãi, trẻ con hai ba tuổi có thể tự mình đọc sách được.

Ngoài ra, những việc cần làm khác chúng tôi đều đã hoàn thành tốt đẹp, hơn nữa những công việc mà chúng tôi đã làm là những công việc vô cùng quan trọng. Đó là “kích thích và phát triển toàn diện các khả năng tiềm ẩn của trẻ nhỏ” chứ không phải chỉ là học tập tri thức từ sớm. Hiện nay, có không ít các bậc cha mẹ và một vài tổ chức nghiên cứu về việc giáo dục trẻ trước tuổi đi học. Họ đã làm một cách đơn giản là lấy việc dạy chữ sớm cho trẻ để thay thế cho việc giáo dục từ sớm toàn diện. Họ nghĩ rằng, giáo dục từ sớm chính là dạy trẻ con biết chữ từ rất sớm. Đây là một sự hiểu lầm về việc giáo dục từ sớm. Nếu đặt trọng tâm của việc giáo dục từ sớm ở chỗ dạy chữ từ sớm, mà bỏ qua việc phát huy các tiềm năng trí tuệ, như thế thì những đứa trẻ trước tuổi đi học ấy cũng chỉ là những đứa trẻ được học sớm dăm bảy chữ mà thôi. Những tri thức đó tuy rằng có lợi, nhưng hiệu quả của nó thật kém xa so với việc phát triển trí lực toàn diện.

Thực ra, trí lực và tri thức không phải là một. Tri thức là sự nhận thức các sự vật và các qui luật phát triển của nó, cùng với sự tích luỹ kinh nghiệm thực tiễn của loài người, là sự cấu thành của các loại khả năng như: khả năng chú ý, khả năng quan sát, khả năng tưởng tượng, khả năng tư duy … Chả thế, đã có người nói rằng: “Phát triển trí lực là hòn ngọc vô giá, còn truyền thụ tri thức chỉ là một vật quý giá mà thôi”. Khi đã hiểu được điều đó, thì sự kiên trì nhẫn nại giáo dục con cái của các bậc cha mẹ sẽ tăng lên gấp bội, họ không nôn nóng thực dụng nữa, mà đã biết sàng lọc chắt chiu để nhào nặn nên những tố chất quý báu và tâm hồn trong sáng cho con cái mình.

Chính vì cả nhà tôi đã biết tình nguyện dồn hết tất cả thời gian và tâm huyết cho sự tiến bộ từng bước của Đình Nhi, mới có thể làm cho cháu trong hoàn cảnh cha mẹ ly dị nhau mà vẫn hoàn thành tốt đẹp công việc phát triển trí lực và giáo dục tình cảm từ 0 đến 3 tuổi.