Họ Đinh là một trong số ít các dòng họ tại Việt Nam mắt tộc họ được mang tên một triều đại quân chủ của Việt. Những chiến công đã được sử sách ghi danh sẽ sáng mãi truyền thống quý báu của họ Đinh Việt, Con cháu họ đình có quyền tự hào và nâng niu, Giữ gìn và phát huy truyền thống vẻ vang ấy, làm rạng danh họ ĐINH. Bài viết này sưu tầm từ các nguồn có điểm giống với bách khoa toàn thư mở tiếng Việt wikipedia.
Tộc Họ Đinh – (Hán tự:丁); là một trong số ít các dòng Họ tại Việt Nam mà Tộc Họ được mang tên một triều đại quân chủ của Việt Nam, đó là Nhà Đinh (Hán tự: 丁朝, Đinh Triều) - là triều đại Quân chủ tập quyền đầu tiên trong lịch sử. Nhà Đinh bắt đầu năm 968, sau khi Vua Đinh Tiên Hoàng dẹp xong loạn 12 sứ quân thống nhất đất nước lên ngôi Hoàng Đế và kết thúc năm 980 khi con của Đinh Tiên Hoàng là Vua Đinh Phế Đế nhường ngôi cho Lê Hoàn.
Trong danh sách Bách Gia tính của Việt Nam, tính theo tỉ lệ người Việt mang họ Đinh, thì Họ Đinh đứng thứ 17, với tỷ lệ khoảng từ 0,8% - 1% dân số Việt Nam hiện nay, tức là khoảng dưới 01 triệu người (1), nhưng trong công bố của Ban Liên Lạc họ Đinh Việt Nam là khoảng 04 triệu người .
Ở Việt Nam, người mang họ Đinh sống rải rác trên khắp cả nước, nhưng tập trung khá nhiều ở Ninh Bình, đây là nơi cho đến nay được xem là khởi thủy của tộc Họ Đinh Việt Nam, hy vọng rằng đây sẽ là Trung tâm liên lạc của Họ Đinh Việt Nam.
1. Nguồn gốc Họ Đinh tại Trung Hoa:
Tộc Họ Đinh có nguồn gốc từ nước Trung Hoa ngày nay. Theo sử Trung Hoa, khoảng năm 2337 trước Công nguyên – dưới thời trị vì của Đế Nghiêu, có một người họ Lã con của Tứ Nhạc (bề tôi của Vua Nghiêu) phò tá vua Võ (nhà Hạ). Ông nối nghiệp cha tiến hành trị thủy thành công chín dòng sông ở Trung Hoa, được tập phong làm hầu quốc đời nhà Hạ. Khi nhà Hạ mất, họ này bị giáng xuống làm thứ dân, trải suốt đời nhà Thương (1558 – 1050), cho đến khi Khương Tử Nha xuất hiện. Khương Tử Nha họ Lã, tên Vọng, thường câu cá ở bờ sông Vị, sau được vua Văn Vương nhà Chu vời về triều làm thày dạy cho Vũ Vương.
Theo “Thiên thị tộc lược sách thông chí” chép: Vào thời Tây Chu (thế kỷ thứ XI trước Công nguyên) có lệ cắt đất phong vương cho chư hầu. Do Khương Tử Nha có công phò giúp Chu Vũ Vương đánh thắng nhà Ân, được phong nước Tề. Khương Thái công (tức Khương Tử Nha) được cho cai quản đất Tề gọi là Tề Thái Công.
Một người con thứ của Tề Thái Công là Lã Cấp giữ chức hổ bí (còn đọc là hổ bôn, chức quan nhà Chu, chuyên cai quản các nghi thức bảo vệ vua chúa khi đi ra ngoài kinh thành), đổi hiệu là Đinh Công. Lã Cấp nối nghiệp cha, sau khi mất có tên thụy là Đinh Công, hậu duệ về sau lấy tên thụy của ông làm họ Đinh. Đây là trường hợp lấy tên thụy của tổ tiên làm Họ.
Theo sách “Tính thị khảo lược”chép: Họ Đinh xuất phát từ Lã Vọng (hay Khương Tử Nha), họ này chia ra ngành trưởng lấy họ Lã, ngành thứ lấy họ Đinh.
Họ Đinh phân bố chủ yếu ở quận Tề Dương thuộc Tề Âm - Tề Âm là tên nước được lập ra năm Trung Nguyên thứ 6 (năm 144) đời vua Hán Cảnh Đế, nay thuộc vùng huyện Định Đào, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc (2). Tề Dương là tên quận đặt ra thời Tấn Huệ Đế (ở ngôi năm 290-306) do cắt đất quận Trần Lưu, nay thuộc vùng đất huyện Lan Khảo, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Họ Đinh bắt đầu xuất phát từ đây ?
Thời Tây Chu họ Đinh phát triển thịnh vượng, các thế hệ dòng họ sau này kế tiếp nhau giữ chức hổ bí. Khi nhà Chu chuyển dời về phía đông, họ tộc này cũng dời đi theo. Thời Xuân thu - Chiến quốc, người họ Đinh chạy loạn về đất Giang Nam, Trung Quốc. Trải suốt từ thời nhà Hán cho đến nhà Đường, dòng họ này sống yên ổn bằng nghề nông.
Đến khi có loạn Hoàng Sào (người Tào Châu, Sơn Đông) đời Đường, năm Càn Phù thứ 2 (874), có một người họ Đinh tham gia cuộc khởi nghĩa của Vương Tiên Chi. Sau khi Vương Tiên Chi chết, lên thay làm thủ lĩnh, hiệu là Xung Thiên Quân Bình Đại Tướng quân. Người này đã phát triển binh lực lên rất mạnh, đem quân đánh phá Quảng Châu, rồi tiến lên phía bắc đánh Lạc Dương, vào Trường An, lập ra chính quyền Thiên Tề, đặt niên hiệu Kim Thống. Sau bị Lý Khắc Dụng đánh bại, cuối cùng phải tự vẫn năm Trung Hòa thứ 4 (884), gia đình - dòng Họ phải phiêu bạt tứ tán khắp nơi để tránh sự truy sát của triều đình.
2. Nguồn gốc Họ Đinh tại Việt Nam :
Trong các người con của thủ lĩnh Xung Thiên Quân Bình Đại Tướng quân, có một người đã rời đất liền chạy thoát ra biển và xuôi về phương Nam tìm chốn dung thân. Sau khi thoát được ra biển, người họ Đinh này ngồi thuyền lênh đênh trôi nổi theo con nước, gặp được gió thuận nên phiêu bạt xuống phương Nam, một mình đơn độc gửi thân ở chốn châu Đại Hoàng (thuộc Gia Viễn, Ninh Bình ngày nay)(3).
Người họ Đinh này lấy vợ người địa phương và sinh cơ lập nghiệp ở Châu Đại Hoàng. Con cháu của người họ Đinh này phân tán đến lập nghiệp nhiều nơi, trong đó có vùng động Hoa Lư, cũng thuộc châu Đại Hoàng (huyện Hoa Lư, Ninh Bình ngày nay). Tới thời ông Đinh Công Trứ và một người em ruột, thì dòng họ Đinh bắt đầu hiển vinh.(khoảng những năm đầu của thế kỷ thứ X sau Công nguyên).
Đinh Công Trứ, nguyên là một nha tướng của Dương Đình Nghệ. Khi Dương Đình Nghệ tiếp nối làm Thống lĩnh Giao Châu của họ Khúc, đã cử ông Đinh Công Trứ làm Thứ sử Châu Hoan (Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay). Đinh Công Trứ sinh ra Đinh Bộ Lĩnh, nhưng ông mất sớm, Đinh Bộ Lĩnh lúc này còn nhỏ (năm 12 tuổi), phải theo mẹ về quê Hoa Lư sinh sống. Đinh Bộ Lĩnh có tài bơi lặn dưới nước, chuyên nghề lặn sông bắt cá nuôi mẹ, họ cùng sống nương tựa vào ông chú .
Sống ở quê nhà Đinh Bộ Lĩnh thường chơi với trẻ chăn trâu, bắt chúng khoanh tay làm kiệu để ngồi cho chúng rước và lấy bông lau làm cờ bày trận đánh nhau. Lớn lên, nhờ thông minh, có khí phách lại có tài thao lược nên khi Bộ Lĩnh dựng cờ dấy nghĩa, dân trong vùng theo ông rất đông. Ông trở thành thủ lĩnh của động Hoa Lư.
Nhưng vì bất hòa với người chú, ông cùng với con là Đinh Liễn sang ở với sứ quân Trần Lãm (tục gọi là Trần Minh Công) ở Bố Hải Khẩu (Vũ Thư, Thái bình). Thấy Bộ Lĩnh là người khôi ngô có chí khí, Minh Công đã trao cho Bộ Lĩnh giữ binh quyền. Khi Trần Lãm qua đời, Bộ Lĩnh đem quân về giữ Hoa Lư, chiêu mộ hào kiệt hùng cứ một phương.
Sau khi Ngô Vương Quyền mất, đất nước bị chia cắt thành 12 Sứ quân. Năm Tân hợi (951) Đinh Bộ Lĩnh khởi binh đánh dẹp các sứ quân, đánh đâu được đấy, được tôn là Vạn Thắng vương. Chỉ trong một năm đã bình được các sứ quân, thống nhất sơn hà thành một mối, lập thành nghiệp đế.
Năm Mậu Thìn (968) Vạn Thắng Vương lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Tiên Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư.
Nhà Đinh thành lập - Đây là nhà nước quân chủ tập quyền đầu tiên của Việt Nam. Dòng Họ Đinh cũng bắt đầu vẻ vang từ đó !
Một người con trai con của ông chú của Vua Đinh Tiên Hoàng là Ngoại Giáp Đinh Điền sau cũng trở thành một tướng lĩnh, một bậc khai quốc công thần của triều Đinh, vị này nhỏ hơn Vua Tiên Hoàng 8 tuổi, con cháu của vị này về sau cũng phát triển thành một nhánh Họ Đinh đông đảo ở đất Ninh Bình ngày nay.
Link tham khảo: https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90inh_(h%E1%BB%8D)
Nguồn: Sưu tầm